Công nghiệp hoá và hiện đại hoá nhằm phát triển nền kinh tế quốc gia là mục tiêu mà nhà nước và nhân dân Việt Nam đang cố gắng thực hiện trong nỗ lực chung nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo đúng xu thế phát triển của thế giới. Để thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế cần có nhiều yếu tố như : cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật phát triển, một nền sản xuất hiện đại và đội ngũ lao động có trình độ.
90 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tài chính theo loại hình dự án tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá nhằm phát triển nền kinh tế quốc gia là mục tiêu mà nhà nước và nhân dân Việt Nam đang cố gắng thực hiện trong nỗ lực chung nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo đúng xu thế phát triển của thế giới. Để thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế cần có nhiều yếu tố như : cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật phát triển, một nền sản xuất hiện đại và đội ngũ lao động có trình độ. Tất cả những yếu tố này tuy có tính chất hoàn toàn khác nhau nhưng đều có một điểm chung là có thể tạo ra qua quá trình đầu tư của xã hội. Muốn có cơ sở hạ tầng thì cần có đầu tư trong hoạt động xây dựng, có khoa học kỹ thuật phát triển cần đầu tư nghiên cứu ứng dụng, để có đội ngũ lao động trình độ cao thì phải đầu tư cho giáo dục và dạy nghề... Vậy đầu tư có vai trò quan trọng với nền kinh tế là tạo ra động lực cho phát triển kinh tế xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển của một quốc gia.
Để có được một kết quả tốt thì cần một quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng và thực hiện đầu tư tốt. Hai tiêu chuẩn chính để có thể đánh giá một quá trình đầu tư có hiệu quả hay không là xem chúng có tạo ra hiệu quả về mặt tài chính & kinh tế xã hội không. Một quá trình đầu tư được xem là có hiệu quả về mặt tài chính nếu sau khi đưa vào hoạt động nó đem lại cho chủ đầu tư một khoản thu lớn hơn chi phí bỏ ra; một dự án xem là có hiệu quả về kinh tế- xã hội nếu nó đem lại lợi ích cho xã hội-cộng đồng như tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho quốc gia. Một dự án có thể chỉ có hiệu quả về tài chính hoặc kinh tế-xã hội nhưng cũng có dự án có hiệu quả cả về tài chính và kinh tế-xã hội. Thông thường trong hai kết quả thì kết quả về mặt tài chính thường được coi trọng hơn và nó là mục tiêu chính của hầu hết các hoạt động đầu tư trong xã hội. Như vậy việc phân tích chỉ tiêu tài chính có vai trò rất quan trọng trong quá trình lập một dự án đầu tư nó là tiền đề cho việc đánh giá hiệu quả, lựa chọn dự án và là cơ sở cho tính toán chỉ tiêu kinh tế-xã hội.
Trong quá trình lập một dự án đầu tư phân tích hiệu quả tài chính dự án đầu tư là một vấn đề quyết yếu đối với chất lượng của một dự án đầu tư. Do vậy đánh giá tài chính luôn được giành một mối quan tâm đặc biệt của các chủ đầu tư, các tổ chức tài chính, cơ quan chức năng trong quá trình lập, thẩm định dự án.
Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tư vấn đầu tư xây dựng nên phân tích hiệu quả tài chính luôn được công ty quan tâm đặc biệt vì nó quyết định lợi ích của khách hàng và cũng chính là lợi ích của công ty. Tuy có nhiều vấn đề cần xem xét song công ty đã có được những kết quả tốt trong việc phân tích hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại công ty. Chính vì vậy qua quá trình thực tập nghiên cứu tại phòng Kinh tế mỏ của công ty nhận thức tầm quan trọng của vấn đề mà muốn nhìn thận về những cải tiến trong quá trình đánh giá hiệu quả tài chính của công ty, cũng như mong muốn đóng góp một phần để giải quyết vấn đề còn tồn tại của đơn vị nên em đã chọn đề tài : “ Phân tích tài chính theo loại hình dự án tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Vấn đề này có tính thực tiễn và là một vấn đề mà công ty cũng đang muốn giải quyết nhất là trong điều kiện thực tế hiện nay công ty đang cố gắng chuẩn hoá công tác tư vấn đầu tư của công ty mình để đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 trong vấn đề quản lý chất lượng. Với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú tại đơn vị thực tập và giáo viên hướng dẫn em đã thực hiện đề tài này, tuy đây là một đề tài không mới nhưng không dễ để có thể phân tích thấu đáo mọi vấn đề về nó chính vì vậy em chỉ hy vọng qua đề tài này thể hiện được phần nào nhận thức của mình về vận dụng lý thuyết đã học tại giảng đường đại học để giải thích một phần thực tế hoạt động tại công ty.
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu này nhằm khẳng định tầm quan trọng của hoạt động phân tích tài chính với dự án đầu tư và sự đa dạng của cách thức phân tích của các đơn vị khác nhau. Trên cùng một khung chung thì với mỗi đơn vị đều có sự cải tiến công tác phân tích tài chính để phù hợp với thực tế hoạt động của đơn vị mình đó là điều em rút ra sau quá trình thực tập tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp và muốn chọn để trình bày trong đề tài của mình.
Với các kết quả phân tích sẽ là các giải pháp mà em xin đưa ra tuy vẫn còn mang nặng tính lý thuyết trong cũng là nỗ lực bước đầu trong quá trình tiếp cận thực tế của bản thân.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào quy trình phân tích tài chính dự án tại Công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp cùng với việc xem xét đánh giá qua hai dự án thực tế được lập tại công ty là : “ Đầu tư mở rộng mỏ than Kế Bào”, “ Dự án mua sắm thiết bị cho mỏ than Đèo Nai”.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin cùng với sự kết hợp với các chủ trương, chính sách của chính phủ của Tổng công ty than Việt Nam... để phân tích. Việc tính toán trong đề tài đựơc thực hiện theo đúng quy trình phân tích, xử lý số liệu thống kê kết hợp với sử dụng các trương trình trong Microsolf Excel để tính toán nhằm đảm bảo tính chính xác và thống nhất của dữ liệu đưa ra.
Em đã cố gắng chọn ví dụ trong đề tài để đảm bảo tính điển hình cho quá trình phân tích tài chính dự án tại công ty nhưng không đại diện cho tất cả mà tuỳ điều kiện thực tế có thể có sai khác một vài điểm mà trong khuôn khổ của đề tài không trình bày hết được.
Kết cấu của đề tài được chia ra làm ba phần chính ngoài lời mở đầu và kết luận ra đó là:
Chương I : Các vấn đề lý luận chung
Chương II : Thực trạng phân tích tài chính theo loại hình dự án tại công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp
Chương III : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính theo loại hình dự án tại công ty Tư vấn đầu tư xây dựng mỏ và công nghiệp
Sau cùng là phụ lục và danh mục các tài liệu đã sử dụng trong đề tài.
Chương I : Các vấn đề lý luận chung
I. Đầu tư và đầu tư phát triển
1.Khái niệm chung về đầu tư, đầu tư phát triển
Đầu tư là sự bỏ ra hay sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại như tiền, là tài nguyên thiên, sức lao động và trí tuệ để tiến hành hoạt động nào đó nhằm đạt được các kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai.
Các kết quả đạt được của hoạt động đầu tư có thể là lợi ích về vật chất như nhà xưởng, trường lớp, đường xá, cầu cống được xây dựng mới hay là các khoản tiền thu được từ hoạt động buôn bán hoặc đó cũng có thể là các lợi ích về trình độ học vấn, kỹ năng thông qua học tập hoặc cũng có thể chỉ là các lợi ích xã hội...
Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư đều đem lại lợi ích chung cho cả nền kinh tế. Các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sử dụng tiền tệ từ người này sang người khác trong khi đó các hoạt động bỏ tiền xây dựng, mua thêm máy móc, đầu tư sản xuất- kinh doanh.. làm tăng thêm tài sản cho nền kinh tế các hoạt động như thế gọi là đầu tư phát triển.
Vậy đầu tư phát triển là việc sử dụng các nguồn lực tài chính, vật chất, lao động, trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh tế- xã hội, tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Do vậy đầu tư phát triển có vai trò quan trọng với nền kinh tế.
2. Đặc điểm đầu tư phát triển
Do sự khác biệt của mình nên về bản chất đầu tư phát triển nói riêng có những đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác ở những điểm sau:
ỉ Đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài, các nguồn lực tiền, vật tư, lao động cần huy động lớn
Thời gian từ lúc tiến hành đầu tư cho đến khi các thành quả đầu tư phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều tháng, năm. Do đó trong quá trình đầu tư phải huy động một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, không tham gia vào quá trình chu chuyển, nên nó không sinh lợi cho nền kinh tế. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
Quá trình vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi được vốn hoặc cho đến khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra cũng thường kéo dài trong nhiều năm. Nên không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.
ỉNhững kết quả tạo ra từ hoạt động đâu tư phát triển có vai trò quan trọng với nền kinh tế
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm hàng nghàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
Những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
ỉ Đầu tư phát triển là hoạt động mang tính rủi ro.
Hoạt động đầu tư một mặt là sự đánh đổi lợi ích ở hiện tại và quá trình thực hiện diễn ra trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường trước hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Do các kết quả và hiệu quả của thành qủa đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian.
Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư phát triển đạt được hiểu quả kinh tế xã hội cao thì đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư.
II.Dự án đầu tư
1.Khái niệm
Dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực nhất định.
Một dự án đầu tư thường có bốn thành phần chính:
-Mục tiêu của dự án : Bao gồm hai loại là mục tiêu phát triển lợi ích kinh tế xã hội do dự án đem lại và các mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần thực hiện được của dự án.
-Các kết quả : Đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là những điều kiện cần thiết để dự án thực hiện được các mục tiêu.
-Các hoạt động : Là những nhiệm vụ hoặc những hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với biểu lịch và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
-Các nguồn lực: Về vật chất, tài chính, con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cho dự án.
Trong 4 thành phần trên thì kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án. Vì vậy yêu cầu trong quá trình thực hiện dự án thường xuyên có đánh giá kết quả.
2. Sự cần thiết phải đầu tư theo dự án
Như đã trình bày ở trên đầu tư là quá trình sử dụng nhiều nguồn lực cả vật chất và trí tuệ, lao động với các kết quả được hình thành và tồn tại lâu dài nên ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp nói riêng và quốc gia nói chung vì vậy đầu tư theo dự án là một bước tối ưu hoá công cuộc đầu tư để thực hiện tốt các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp, địa phương hay quốc gia.
Để lập được một dự án đầu tư thì chủ đầu tư cần phải thực hiện theo một trình tự quy định từ việc tìm kiếm cơ hội đầu tư , lập nghiên cứu tiền khả thi đến lập nghiên cứu khả thi ... trải qua một quá trình như vậy giúp chủ đầu tư có điều kiện để đánh giá một các chính xác về tính khả thi của dự án tạo điều kiện cho chủ đầu tư tiết kiệm chi phí vì nếu dự án không có tính khả thi sẽ dừng lại ngay ( giảm các chi phí không cần thiết) tránh dự án kém hiệu quả gây lãng phí. Ngoài ra với chủ đầu tư việc lập dự án còn có tác dụng giúp họ xin được giấy phép đầu tư hoặc giấy phép hoạt động, thuận tiện nếu dự án có nhập khẩu máy móc- thiết bị hay muốn xin các khoản ưu đãi đầu tư nếu là các dự án thuộc dạng được ưu đãi.
Muốn đầu tư một dự án các đơn vị thường không đủ năng lực tài chính hoặc muốn san sẻ rủi ro cho các đơn vị khác nên thường bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu một dự án đầu tư thường có thêm vốn vay của các đơn vị hoặc vốn cổ phần thông qua phát hành cổ phiếu trái phiếu nên dự án đầu tư chính là cơ sở pháp lý cho việc vay vốn hoặc xin phép phát hành cổ phiếu của các đơn vị.
Dự án đầu tư là một kết quả của quá trình nghiên cứu cẩn thận và kỹ lưỡng của các yếu tố thị trường, đầu vào-đầu ra sản phẩm... nên khi đầu tư theo dự án giúp hạn chế rủi ro mà một dự án có thể gặp phải hoặc có thể thay đổi phương án khi gặp rủi ro vì khi lập dự án đã tính đến các yếu tố rủi ro vậy dự án vẫn có thể đạt được các mục tiêu đã định.
Dự án đầu tư cũng là cơ sở để đơn vị tổ chức theo dõi, quản lý, kiểm tra trong quá trình thực hiện đầu tư và cũng là cơ sở để bố trí nguồn lực cho các giai đoạn của dự án.
Về phía các cơ quan quản lý thì dự án đầu tư là cơ sở để họ ra các quyết định đầu tư, là cơ sở cho việc thẩm định tính khả thi của dự án và cũng là cơ sở để tài trợ cho dự án.
Như vậy dự án đầu tư có vai trò hết sức quan trọng cho cả đơn vị lập và các tổ chức có liên quan và là bước khởi đầu quan trọng để có một quá trình đầu tư thuận lợi.
III.Phân tích tài chính dự án đầu tư
1.Khái niệm
Phân tích tài chính dự án đầu tư là việc xem xét tính khả thi về mặt tài chính của dự án thông qua việc xem xét nhu cầu và sự đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc thực hiện dự án đầu tư, xem xét tình hình kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ hạch toán kinh tế của đơn vị thực hiện dự án. Kết quả phân tích này là căn cứ để chủ đầu tư ra quyết định có đầu tư hay không. Ngoài ra phân tích tài chính còn là cơ sở cho phân tích kinh tế xã hội
2.Vai trò của phân tích tài chính dự án
Đối với mỗi một chủ thể khác nhau thì phân tích tài chính DA có vị trí khác nhau:
-Đối với chủ đầu tư : Phân tích tài chính là cách thức để chủ đầu biết có nên đầu tư hay không và lựa chọn phương án tốt nhất trong khả năng tài chính của mình.
-Đối với đơn vị cho vay vốn: Phân tích tài chính dự án là một trong những công tác quan trọng để xem khả năng trả nợ của chủ đầu tư để từ đó có quyết định cho vay vốn hay không.
-Đối với các cơ quan quản lý: Phân tích tài chính là một trong những căn cứ để xem xét quyết định có cho phép đầu tư hay không, là cơ sở để lựa chọn dự án đem lại lợi ích cho cả chủ đầu tư và xã hội.
3.Nội dung của phân tích tài chính dự án
3.1.Một số vấn đề có liên quan
Để phân tích được khía cạnh tài chính thì cần thu thập được các số liệu có liên quan như lãi suất, doanh thu, chi phí... nhưng các yếu tố này phát sinh ở các thời điểm khác nhau nên trước khi xem xét nội dung của phân tích tài chính chúng ta phải xem xét một số khái niệm có liên quan là :
3.1.1. Giá trị thời gian của tiền
Chúng ta thấy ở các thời điểm khác nhau với cùng một khối lượng tiền tệ thì lượng hàng hoá mua đựơc là không bằng nhau đó là do sự thay đổi giá trị của tiền qua các giai đoạn. Như vậy tiền có giá trị về mặt thời gian và chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
Do ảnh hưởng của lạm phát điều này biểu hiện sự thay đổi giá trị của tiền theo thời gian
Do ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên : Giá trị thời gian của tiền biểu hiện những giá trị gia tăng hoặc giảm đi theo thời gian do ảnh hưởng của các nhân tố ngẫu nhiên. Chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp giá trị sản xuất trong năm thời tiết thuận lợi cao hơn trong năm có thiên tai.
Do thuộc tính vận động và khả năng sinh lợi của tiền : Trong nền kinh tế thị trường đồng vốn luôn luôn vận động để đem lại lợi ích cho chủ kể cả gửi ngân hàng hay dùng để đầu tư... như vậy sự thay đổi của một khoản tiền sau một thời gian cũng phản ánh giá trị thời gian của tiền và ở đây giá trị thời gian của tiền biểu hiện qua lãi tức. Lãi tức được xác định bằng tổng số vốn đã tích luỹ theo thời gian trừ đi vốn đầu tư ban đầu.
Chính vì có sự khác nhau về giá trị của tiền theo thời gian nên khi thực hiện công việc phân tích tài chính một dự án đầu tư người ta phải thực hiện quy đổi các khoản tiền về cùng một giai đoạn để tiện cho việc đánh giá hiệu quả thông thường đó là giai đoạn thực hiện đầu tư.
Tính chuyển về mặt bằng hiện tại:
PV=FV* 1/(1+r)n
Tính chuyển về mặt bằng tương lai:
FV=PV* (1+r)n
Trong đó:
PV(present value): giá trị hiện tại của tiền
FV(future value): giá trị tương lai của tiền
r: tỷ suất chiết khấu của dòng tiền
n: số năm
3.1.2. Tỷ suất “ r ”
Tỷ suất “ r ” dùng để chuyển giá trị thời gian của tiền đồng thời dùng làm độ đo giới hạn để xét sự đáng giá của dự án đầu tư nên có vị trí rất quan trọng đối với việc đánh giá dự án đầu tư. Muốn xác định chính xác tỷ suất “r” của dự án cần phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể :
Nếu vay vốn để đầu tư thì “ r ” là lãi suất vay
Nếu vay từ nhiều nguồn khác nhau thì “ r ” lãi suất bình quân từ các nguồn vốn. Kí hiệu là
Trong đó:
IVk : số vốn từ các nguồn khác nhảy
rk : lãi suất vay của các nguồn vốn
n : số nguồn vốn vay
Trong trường hợp đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau ( vay dài hạn, vốn tự có, vốn cổ phần...)thì “ r ” là mức lãi suất bình quân của các nguồn vốn đó.
Nếu vay theo những kỳ hạn khác nhau thì phải chuyển lãi suất đi vay về cùng một kỳ hạn ( thông thường theo năm )
Trong đó:
rn : giá trị lãi suất theo năm
rt : giá trị lãi suất theo các kỳ hạn khác ( tháng, quý, 6 tháng..)
m: số kỳ hạn trong năm
Nếu vốn đầu tư do ngân sách cấp thì tỷ suất “ r ” là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước quy định. Nếu chưa quy định thì lấy bằng lãi suất cho vay dài hạn của ngân hàng hoặc tốc độ lạm phát của nền kinh tế.
Trường hợp cổ phần để đầu tư thì “ r ” là lợi tức cổ phần
Nếu góp vốn liên doanh thì “ r ” là tỷ lệ lãi suất do các bên liên doanh thoả thuận
Nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư thì “ r ” bao hàm cả tỷ lệ lạm phát và mức chi phí cơ hội.
Trong đó:
f : tỷ lệ lạm phát
rcơ hội: tỷ lệ chi phí cơ hội
3.2.Nội dung phân tích tài chính của dự án đầu tư
3.2.1. Xác định tổng mức vốn đầu tư
Tổng mức vốn đầu tư bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để đưa dự án vào hoạt động. Tổng mức vốn này chia làm hai loại vốn cố định và vốn lưu động ban đầu ( hiện nay có thêm chi phí dự phòng ).
ỹ Vốn cố định gồm có :
Chi phí chuẩn bị ( chi phí cho quá trình thu thập số liệu, soạn thảo dự án đầu tư, thẩm định dự án...)
Chi phí cho xây lắp và mua sắm thiết bị ( chi phí ban đầu về đất đai, chuẩn bị mặt bằng, giá trị nhà xưởng kết cấu hạ tầng, chi phí mua sắm thiết bị và chi phí khác..)
ỹ Vốn lưu động ban đầu :
Vốn sản xuất : Chi phí nguyên vật liệu, điện, nước...
Vốn lưu thông : Thành phẩm tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền...
Yêu cầu:
- Tổng vốn đầu tư cần được dự tính theo các giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư, căn cứ vào độ thực hiện đầu tư, các công việc chủ yếu trong phân tích kỹ thuật.
- Xác định nguồn tài trợ cho dự án và khả năng đảm bảo vốn từ mỗi nguồn về mặt số lượng và tiến độ.
- Huy động vốn cho dự án phải đảm bảo đủ về số lượng, đúng về thời hạn cần bỏ vốn, mức lãi suất có thể chấp nhận của dự án.
- Về các nguồn huy động cho dự án phải đảm bảo tính pháp lý, cơ sở thực tiễn.
3.2.2.Lập các báo cáo tài chính cho từng năm cũng như cả đời dự án
Báo cáo tài chính giúp cho chủ đầu tư thấy được tình hình hoạt động tài chính của dự án và nó là nguồn số liệu giúp cho việc tính toán phân tích các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính của dự án
Thông thường với một dự án đầu tư thường có các loại báo cáo tài chính sau:
Dự tính doanh thu từ hoạt động của