Nền kinh tế của khu vực Châu Á trong vài thập kỉ vừa qua đã cho thấy sự phát triển của họ là đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực. Có thể nói, chìa khoá sự thành công của mỗi doanh nghiệp chính là con người.
Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay,
15 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích tháp nhu cầu của người lao động do Abraham Maslow đưa ra và những giải pháp chủ yếu thoả mãn các nhu cầu trong điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Nền kinh tế của khu vực Châu á trong vài thập kỉ vừa qua đã cho thấy sự phát triển của họ là đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực. Có thể nói, chìa khoá sự thành công của mỗi doanh nghiệp chính là con người.
Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, nền kinh tế đã chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đã đề ra chiến lược: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh, bền vững và khẳng định rằng: “ Để nền kinh tế đất nước phát triển cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt là đối với nước ta khi nguồn lực vật chất và tài chính còn hạn chế. ”
Để phát triển nguồn nhân lực, các nhà doanh nghiệp cần phải quan tâm đến các nhu cầu của người lao động, để giúp người lao động thêm gắn bó với công việc. Đây là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động sản xuất.
Với mục đích hiểu rõ thêm về nhu cầu của người lao động, em xin được trình bày qua bài tiểu luận : “Phân tích tháp nhu cầu của người lao động do Abraham Maslow đưa ra và những giải pháp chủ yếu thoả mãn các nhu cầu trong điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”.
Nội dung
I/ Nhận thức chung về trường phái: “Quan hệ con người”
1. Trường phái “Quan hệ con người”
Trường phái này nghiên cứu những động cơ tâm lý thuộc hành vi của con người trong quá trình sản xuất, trong quan hệ tập thể đặc biệt là các vấn đề về hợp tác- xung đột trong quá trình này.
Qua thực nghiệm, người ta chứng minh được rằng việc tăng năng suất lao động không những phụ thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh (như điều kiện lao động, chế độ nghỉ ngơi...) mà còn phụ thuộc tâm lý người lao động và bầu không khí trong tập thể lao động (vd trong phong cách ứng xử của đốc công, sự quan tâm của nhà quản lý doanh nghiệp đối với sức khoẻ, hoàn cảnh riêng của người lao động...). Lý thuyết quản lý của trường phái này được xây dựng chủ yếu dựa vào những thành tựu của tâm lý học. Họ đưa ra các khái niệm “Công nhân tham gia quản lý”,”Người lao động coi doanh nghiệp là nhà của mình ”...Tư tưởng quản lý này được nhiều nước áp dụng, đặc biệt là nước Nhật.
Đại diện của trường phái này là Abraham Maslow (1908-1970).Maslow cho rằng những người bình thường thích được làm việc và tiềm ẩn những khả năng rất lớn, được khởi động và khai thác. Có khả năng sáng tạo lớn và bất cứ ở cương vị nào cũng có tinh thần trách nhiệm và muốn làm việc tốt.
2. Tháp nhu cầu người lao động của Abraham Maslow
Lý thuyết tháp nhu cầu của Maslow đã được nhiều người chấp nhận ngay từ khi nó được đưa ra. Lý thuyết của ông về động cơ nhấn mạnh hai tiền đề cơ bản:
- Chúng ta là những động vật luôn có ham muốn, với những nhu cầu phụ thuộc vào những gì chúng ta đã có. Chỉ những nhu cầu chưa được thoả mãn mới có thể ảnh hưởng đến hành vi. Nói cách khác, một nhu cầu đã được thoả mãn không phải là một động cơ.
- Các nhu cầu của ta được sắp xếp theo thứ bậc ý nghĩa quan trọng. Một khi một nhu cầu đã được thoả mãn thì những nhu cầu khác lại xuất hiện và đòi hỏi phải được thoả mãn.
Maslow giả thiết có 5 cấp nhu cầu: sinh lý, an toàn, xã hội, tôn trọngvà tự thể hiện mình. Ông đã sắp xếp chúng trong một hệ thống gọi là thứ bậc của các nhu cầu do có mức độ quan trọng khác nhau. Theo Maslow con người đều cố gắng thoả mãn 5 nhu cầu cơ bản của mình.
Các nhu cầu cấp cao Tự thể hiện mình
Cấp nhu cầu cao nhất,
nhu cầu tự khẳng định
mình, phát triển và sử
dụng các khả năng 1
cách đầy đủ và sáng
tạo nhất.
Tôn trọng
Nhu cầu được người khác
quý trọng, được tôn trọng
có uy tín, được công nhận
nhu cầu về sự tự trọng, ý
thức cá nhân về khả năng
quyền làm chủ.
Các nhu cầu cấp thấp Xã hội
Nhu cầu về tình yêu, sự
yêu mến, ý thức về mối
quan hệ của mình với
những người khác.
An toàn
Nhu cầu về an ninh, được
bảo vệ, sự ổn định trong
các sự việc tự nhiên và
giữa các cá nhân trong sinh
hoạt hàng ngày.
Sinh lý
Những nhu cầu cơ bản nhất trong
tất cả những nhu cầu của con người,
nhu cầu duy trì sự sống về thức ăn,
nước uống, tình dục...
Maslow khẳng định rằng nếu tất cả những nhu cầu của một con người đều không được thoả mãn vào một thơì điểm cụ thể, thì việc thoả mãn những nhu cầu trội nhất sẽ thúc ép mạnh nhất. Những nhu cầu xuất hiện trước tiên phải được thoả mãn trước khi một nhu cầu cấp cao hơn xuất hiện.
Chúng ta hãy xem xét sơ qua từng cáp nhu cầu:
2.1. Những nhu cầu sinh lý
Loại nhu cầu này gồm có những nhu cầu quan trọng nhất của cơ thể con người, như thức ăn, nước và tình dục. Những nhu cầu sinh lý sẽ chi phối khi chúng không được thoả mãn và không một nhu cầu nào khác có thể là cơ sở của động cơ . Như Maslow đã phát biểu:“Một người thiếu thức ăn, sự an toàn, tình yêuvà sự quý trọng, chắc chắn sẽ khao khát thức ăn mạnh hơn mọi thứ khác”.
2.2. Những nhu cầu an toàn
Khi những nhu cầu sinh lý đã được đáp ứng đầy đủ, thì những nhu cầu cấp cao hơn tiếp theo sẽ trở nên quan trọng. Những nhu cầu an toàn bao gồm việc bảo vệ khỏi bị xâm hại thân thể, ốm đau bệnh tật, thảm hoạ kinh tế và những điều bất ngờ. Theo quan điểm quản trị thì những nhu cầu an toàn thể hiện ra ở sự cố gắng của công nhân viên, đảm bảo có việc làm và có các phụ cấp.
2.3. Các nhu cầu xã hội
Những nhu cầu này liên quan đến bản chất xã hội của con người và nhu cầu về tình bạn của họ. ở đây hệ thống thứ bậc bắt đầu từ những nhu cầu vật chất hay tiêu chuẩn vật chất của hai cấp trên. Tình trạng không thoả mãn nhu cầu ở cấp này có thể tác động đến trạng thái tinh thần của cá nhân đó.
2.4. Các nhu cầu được tôn trọng
Nhu cầu ý thức rõ tầm quan trọng đối với những người khác (lòng tự trọng) cũng như về sự quý trọng thực sự của những người khác đều thuộc loại này. Sự tôn trọng từ phía những người khác cũng phải được cảm nhận là xác thực và xứng đáng. Việc thoả mãn những nhu cầu này sẽ dẫn đến sự tự tin và uy tín.
2.5. Các nhu cầu tự thể hiện mình
Maslow định nghĩa những nhu cầu này là “lòng mong muốn trở nên lớn hơn bản thân mình, trở thành mọi thứ mà mình có thể trở thành”. Điều đó có nghĩa là cá nhân sẽ thể hiện đầy đủ mọi tài năng và năng lực tiềm ẩn của mình. Hiển nhiên là khi vai trò của một cá nhân thay đổi thì những khía cạnh đối ngoại của việc tự thể hiện mình cũng thay đổi theo. Nói cách khác, bất kể người đó là giáo sư đại học, giám đốc công ty, hay vận động viên thì nhu cầu vẫn là làm sao trở nên có hiệu quả hơn trong vai trò đó của mình. Maslow cho rằng chỉ có thể thoả mãn được nhu cầu tự thể hiện mình sau khi đã thoả mãn tất cả những nhu cầu khác. Hơn thế nữa, ông còn phát biểu rằng việc thoả mãn những nhu cầu tự thể hiện mình có xu hướng là tăng cường độ của các nhu cầu khác, vì thế người ta có thể đạt được việc tự thể hiện mình thì họ có thể bị thúc ép bởi những cơ hội to lớn để thoả mãn nhu cầu đó.
3. Vận dụng lý thuyết của Maslow trong quản trị
Lý thuyết về hệ thống thứ bậc của nhu cầu được những nhà giá trị thực tiễn chấp nhận rộng rãi và tham khảo nhiều. Mặc dù nó không cho ta một sự hiểu biết đầy đủ về hành vi của con người hay những phương tiện để động viên con người, nó vẫn cung cấp một điểm xuất phát tuyệt vời cho các sinh viên khoa quản trị. Hệ thống thứ bậc đó rất dễ hiểu, có rất nhiều điều hấp dẫn của đời thường và chỉ ra một số những yếu tố thôi thúc con người trong các tổ chức kinh doanh cũng như các loại hình tổ chức khác.
- Bằng tiền công hay tiền lương các cá nhân có khả năng thoả mãn những nhu cầu sinh lý của mình và của gia đình mình.
- Các tổ chức cũng giúp đỡ thoả mãn phần lớn những nhu cầu an ninh hay an toàn thông qua tiền lương và các phụ cấp.
- Giúp đỡ thoả mãn những nhu cầu xã hội do tạo điều kiện giao tiếp và kết giao với những người khác trong công việc.
Những nhà quản trị có thể giúp đỡ công nhân viên thoả mãn các nhu cầu
Loại nhu cầu Khu vực ảnh hưởng của quản trị
Tự thể hiện mình Những thách thức trong công việc
Cơ hội tiến bộ
Các cơ hội để sáng tạo
Động cơ đạt thành tích cao hơn
Sự thừa nhận công khai thành tích tốt
Sự tôn trọng Những hoạt động quan trọng của công việc
Trên công việc được kính nể
Trách nhiệm
Các cơ hội giao tiếp xã hội
Xã hội Sự ổn định của nhóm
Việc khuyến khích hợp tác
Các điều kiện làm việc an toàn
An toàn Sự đảm bảo có việc làm
Các loại tiền phụ cấp
Tiền lương xứng đáng
Sinh lý Các điều kiện làm việc thuận lợi
Nhiệt độ, ánh sáng, không gian, điều hoà không khí...
Tuy nhiên, lý thuyết của Maslow vẫn còn một số nhược điểm như:
- Con người ở các công ty khác nhau, các vị trí khác nhau hay các nước khác nhau đều có những điểm khác biệt. Một nhân viên kế toán ở Budapest-Hungary làm việc cho ngân hàng tín dụng Hungary có thể quan tâm đến 1 địa bàn làm việc thuận tiện, một mức tiền lương đủ để nuôi gia đình và có thời gian nghỉ phép trong những tháng hè. Nhưng một nhân viên kế toán ở ngân hàng Chase Manhattan ở New york city có thể lại có nhu cầu rất lớn để tự thể hiện mình và không đề cập đến quá nhiều đến nhu cầu sinh lý và an ninh.
- Hệ thống thứ bậc của nhu cầu này là các nhu cầu gối lên nhau và có thể trùng khớp với nhiều, thậm chí với tất cả các loại nhu cầu. Ví dụ, một mức tiền lương hợp lý có thể thoả mãn được những nhu cầu thuộc tất cả 5 loại; mức tiền lương mà một người nhận được có ảnh hưởng đến nhiều nhu cầu khác nhau.
- Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Maslow là tĩnh nhưng các nhu cầu lại thay đổi theo thời gian, trong những tình huống khác nhau và khi con người tiến hành so sánh đối chiếu giữa sự thoả mãn của mình với sự thoả mãn của người khác. Một người 22 tuổi mới tốt nghiệp đại học thì nhận thức, trải nghiệm và đối phó với các nhu cầu theo một cách khác hẳn so với một người 60 tuổi đang chuẩn bị nghỉ hưu và tham gia các hoạt động nghỉ ngơi.
II/. Thực tiễn vận dụng quản lý trong hệ thống thứ bậc nhu cầu vào điều kiện các doanh nghiệp VN.
1.Những chính sách của nhà nước đối với yếu tố con người trong doanh nghiệp Việt Nam.
Con người là một chủ thể sống, là một nhân tố đặc biệt trong số các nhân tố của các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong các doanh nghiệp. Nó khác với các nhân tố khác bởi vì nó vừa là nhân tố động lực bảo đảm cho sự thành công trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và của tất cả hoạt động trong xã hội nói chung, song đồng thời cũng là mục tiêu phục vụ mà các doanh nghiệp và cả xã hội phải hướng tới .
- Thực tế đã chứng minh, trong quản lý nhà nước đối với nhân tố con người trong doanh nghiệp nhằm phát triển kinh tế xã hội. Nhân tố con người chỉ được phát huy khi nhu cầu, lợi ích kinh tế hợp pháp của người lao động được quan tâm đúng mức dân chủ hoá đời sống kinh tế được thực hiện.
- Trong một thời gian dài trong cơ chế quan liêu bao cấp trước đây, tình hình kinh tế ở các doanh nghiệp đang trong tình trạng trì trệ: Muốn phát triển sản xuất, chúng ta cần có những người lao động phát triển tốt cả về thể lực và trí lực.
- Công cuộc đổi mới của chúng ta đã khơi dậy tính tích cực của người lao động, biến nó thành nguồn sức mạnh to lớn . Nếu chỉ dựa vào tinh thần lao động tích cực, ý chí vươn lên đơn thuần của người lao động, chúng ta không thể xây dựng được nền sản xuất hiện đại các doanh nghiệp. Nhưng nếu chỉ chú ý nâng cao trình độ học vấn của người lao động, công nghệ hiện đại và đảm bảo sức khoẻ của người lao động mà không chú ý khơi dậy tính tích cực của họ, chúng ta cũng không thể tận dụng được cơ hội để vượt qua những thách thức hiện nay. Vì vậy, quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của người lao động một cách toàn diện- từ nâng cao mức sống, sức khoẻ đến nâng cao trình độ của họ là nhiệm vụ mà nhà nước phải làm.
*Bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác bảo hộ lao động còn bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót. Lao động thủ công, nặng nhọc còn phổ biến trong nhiều nghành, có nơi còn chiếm tỷ lệ từ 60%-70%. Môi trường lao động ở nhiều cơ sở bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là ở các làng nghề, khu công nghiệp , khu chế xuất. Như bệnh lao phổi: sylic chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu bệnh nghề. Số liệu tháng12/2002 đã có 17.416 trường hợp được giám định BNN thì bệnh bụi phổi silic là 14.075 trường hợp chiếm 80.9%. Thực trạng tai nạn lao động, chay, nổ, bệnh nghề nghiệp vẫn còn nghiêm trọng, thậm chí có nơi, có lúc còn biểu hiện chiều hướng gia tăng vv...Sức khoẻ, tính mạng của người lao động đang bị đe doạ bởi những căn bệnh nghề nghiệp.
* Bảo vệ người lao động trước những mối đe doạ hiểm hoạ của môi trường, điều kiện làm việc không an toàn, ảnh hưởng xấu đối với sức khoẻ và tính mạng của họ; chính là giữ gìn nguồn nội lực quốc gia. Đối xử bình đẳng, coi trọng đúng mức nguồn nội lực quốc gia, quan tâm đến người lao động là thể hiện bản chất, tính nhân văn của chế độ xã hội, trình độ văn minh của quốc gia, giữ gìn vốn quý nhất của dân tộc, đất nước là trách nhiệm của người lãnh đạo trong doanh nghiệp. Đó là một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu của thế kỷ XXI. Theo thanh tra nhà nước về an toàn lao động của bộ LĐ-TBXH trong năm 2002 cả nước xảy ra 2367 vụ tai nạn lao động làm 2553 người bị tai nạn trong đó có 441 người chết và 656 người bị thương nặng tăng 5.8% so với năm 2001.
Nguyên nhân chủ yếu là do người lao động sơ ý, bất cẩn hay chưa được huấn luyện về an toàn lao động, không sử dụng thiết bị an toàn lao động, chủ lao động chưa quan tâm đúng mức đến công tác an toàn lao động, chưa ý thức sâu sắc, chưa thực hiện đầy đủ trọn vẹn vai trò, trách nhiệm của mình trong việc cải thiện điều kiện làm việc, phòng ngừa tai nạn lao động và bảo vệ sức khoẻ cho người lao động.
2. Một số vấn đề phần nào đã được đáp ứng cho người lao động trong các doanh nghiệp.
Trong điều kiện xã hội hiện đại, tiềm năng trí tuệ của con người nói chung chỉ được phát huy phần nào và nhiệm vụ của quản lý là phát huy toàn bộ tiềm năng trí tuệ ấy. Đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu của người lao động:
- Nhu cầu về sinh lý cơ thể- nhu cầu bậc thấp- nhằm duy trì sự tồn tại của mình như ăn mặc, ở, sinh hoạt,điều kiện làm việc. Đây là nhu cầu quan trọng nhất song cũng dễ thoả mãn.
- Nhu cầu về việc làm: cần đáp ứng công việc cho người lao động có công việc ổn định trong doanh nghiệp.
- Nhu cầu được xã hội chấp nhận: để người lao động có điều kiện làm việc một cách tốt nhất thì họ phải được xã hội chấp nhận quyền lợi và lòng tự trọng, tự tin của con người và nhu cầu về danh vọng và địa vị.
- Nhu cầu được suy tôn, đào tạo, bồi dưỡng: sự suy tôn, được đào tạo, bồi dưỡng đã được tạo điều kiện cho công nhân trong doanh nghiệp có cơ hội được tiếp nhận và được hoàn thiện những kỹ thuật mới.
- Nhu cầu bậc cao nhất là nhu cầu sáng tạo được phát huy tối đa khả năng trong các hoạt động của công nhân viên trong doanh nghiệp, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy họ tham gia vào quá trình phát triển của doanh nghiệp.
Trên quan điểm “Con người là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp”, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang có những hoạt động nhằm đáp ứng những nhu cầu của người lao động để khuyến khích khả năng làm việc và nhiệt huyết với công ty.
Điển hình như một số công ty đã đáp ứng được một số nhu cầu của người lao động sau:
- Công ty sứ Thanh Trì đang là một doanh nghiệp nhà nước chuyên sản xuất thiết bị sứ vệ sinh cao cấp thành công nhất hiện nay ở Việt Nam, thành tích này có được là nhờ có đội ngũ cán bộ công nhân viên đầy nhiệt huyết, đã hết mình cống hiến cho công ty những tinh hoa, sáng tạo, và một lòng trung thành với công ty, cho dù công ty cũng có lúc lâm vào tình trạng khó khăn. Tại sao lại có được những con người như vậy, đó chính là nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của tổng công ty, sự lãnh đạo tài tình của giám đốc và đội ngũ cán bộ đầy nhiệt huyết và khả năng, luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động một cách công bằng hợp lý. Đại diện của công ty cho biết, nhờ có đối thoại và hợp tác tại nơi làm việc, công ty đã điều chỉnh được mối quan hệ giữa người lao động và sử dụng lao động trong công ty giúp hai bên ngày càng hiểu nhau hơn và nâng cao hiệu quả công tác, góp phần tích cực vào việc sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Công ty đã áp dụng mô hình quản lý xí nghiệp theo từng khả năng của người lao động nhằm tăng khả năng tư duy sáng tạo theo chuyên môn của mỗi người làm cho năng xuất lao động được tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần của người lao động được cải thiện.
- Công ty Changshin Việt Nam chuyên sản xuất giày thể thao mang nhãn hiệu Nike, có tổng số lao động là 5800 người trong số đó có 85 người khuyết tật và 5 thương binh. Mỗi quý một lần, ban lãnh đạo công ty gặp gỡ tất cả những người này để tìm hiểu nhu cầu của họ trong công việc. Công ty đã lắp đặt một số thiết bị đặc biệt như bồn cầu bệt, tay vịn cầu thang, lối đi riêng... dành cho họ. Ngoài ra, công ty còn có sự chăm lo chu đáo tới đời sống của anh chị em khác như: bồi dưỡng ăn trưa, thăm hỏi ốm đau, phục vụ nước giải khát giữa giờ... nhằm khuyến khích người lao động.
- Công ty việt Thái hiện nay đang trên đà phát triển với 1 nguồn nhân lực hùng hậu, kinh nghiệm và nhiệt huyết với công việc. Vì tính chất công việc độc hại nên công ty đã có sự quan tâm thích đáng đối với từng công nhân. Để đảm bảo sức khoẻ cho công nhân, công ty tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho công nhân, và được làm việc trong trang phục bảo hộ lao động. Đối với người lao động làm ở công đoạn phủ bề mặt có thêm ủng và găng tay cao su. Đối với người công nhân ở bộ phận sơn có thêm khẩu trang và mặt nạ. Vì thế tâm lý người lao động luôn thoải mái trong công việc và ngày càng gắn bó với công ty.
Qua cách làm của mỗi công ty cho thấy, nhờ có sự quan tâm đến những nhu cầu chính đáng của người lao động đã giúp cho năng suất lao động được tăng lên, khuyến khích khả năng sáng tạo của người lao động làm cho doanh nghiệp ngày một phát triển. Quan hệ lao động và quan hệ xã hội trong doanh nghiệp được cải thiện, người lao động có thêm hiểu biết, nâng cao nhận thức và cùng chia sẻ những khó khăn với doanh nghiệp, rút ngắn khoảng cách giữa người sử dụng lao động và người lao động, làm cho bầu không khí lao động được tốt hơn. Trẻ hoá nguồn lao động, tôn vinh nguồn lao động, tôn vinh người lao động sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thế kỷ XXI.
3. Những vấn đề còn tồn đọng hiện nay.
- Chưa tôn trọng lợi ích của người lao động theo hợp đồng lao động. ở các đơn vị sản xuất kinh doanh việc thuê mướn lao động còn tuỳ tiện. Trách nhiệm của cả chủ và thợ không được quy định rõ ràng.
- Về vấn đề bảo hộ lao động, tuy pháp luật bảo hộ lao động ban hành từ tháng 4-1992, nhưng đến hơn năm nay có mấy sở thực thi? Trong các nghành cơ khí, hoá chất, vấn đề này ngày càng nghiêm trọng. Trong các lò rèn , khí thải CO tiếng ồn không có cách gì khắc phục. Không chỉ ông chủ “tiết kiệm” chi phí cho bảo hộ lao động, mà chính người lao động cũng chưa ý thức được về tác hại lâu dài đối với sức khoẻ của mình.
- Môi trường làm việc ở nhiều cơ sở bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là ở các làng nghề, khu công nghiệp, khu chế xuất. Thực trạng tai nạn lao động, cháy, nổ, bệnh nghề nghiệp vẫn còn nghiêm trọng. Quyền tự chủ, quyền được tôn trọng đã bị thay thế bằng sự giám sát không tin cậy. Mọi việc đều tiến hành một cách bị động, khiến cho tính tích cực và năng lực sáng tạo của công việc bị đè nén, khả năng hoàn thành mục tiêu của công nhân bị giảm sút rất nhiều.
iii. giải pháp chủ yếu thoả mãN CáC NHU CầU TRONG ĐIềU KIệN CáC DOANH NGHIệP VIệT NAM HIệN NAY.
1. Các cấp quản lý cần thường xuyên tiến hành các công việc sau:
- Thanh tra, giám sát việc bảo đảm lợi ích của người lao động.
- Về bảo hộ lao động cần phải cam kết (theo mức độ ngành, nghề được bộ phận quản lý ngành nghề đó quyết định) khi đăng ký kinh doanh.
- Cần tổ chức, phổ biến, hướng dẫn các biện pháp an toàn lao động cụ thể phù hợp với nhiệm vụ được giao của người lao động.
- Ngưòi sử dụng lao động phải trang bị đầy