Đề tài Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản cố định tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện

Trong nền kinh tế đóng, với cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, vấn đề hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản cố định nói riêng không được chú trọng làm cho hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp không cao. Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước,

doc43 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản cố định tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu: Trong nền kinh tế đóng, với cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, vấn đề hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản cố định nói riêng không được chú trọng làm cho hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp không cao. Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì việc sử dụng hợp lý các nguồn lực là hết sức quan trọng. Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về việc quản lý và phát triển nền kinh tế. Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã chuyển từ chế độ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều chỉnh Vĩ mô của Nhà nước. Từ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ từng bước tiếp cận với nền kinh tế Thế giới, mở rộng giao lưu và phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Bước sang giai đoạn mới - nền kinh tế thị trường - là một thách thức mới đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và hàng ngàn các Doanh nghiệp ở nước ta nói riêng. Trước những yêu cầu của nền kinh tế các Doanh nghiệp phải tự khẳng định mình tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trong Xã hội và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện 61 Trần Phú - Ba đình - Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông), trong những năm qua đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của toàn ngành. Hoạt động của Công ty có những nét đặc thù: là một khâu trên dây chuyền sản xuất, kinh doanh thống nhất toàn ngành. Bởi vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty có liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động chung của hầu hết các đơn vị trực thuộc Bộ Bưu Chính - Viễn Thông. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn mà Bộ Bưu Chính - Viễn Thông giao cho là một vấn đề bức xúc đối với ban lãnh đạo Công ty. Trong quá trình thực tập tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Thế Khải và các cô chú trong phòng Kế toán – Thống kê, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm ra những tồn tại trong việc sử dụng TSCĐ và trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tình hình sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện. Mặc dù được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo và các cô chú trong phòng Kế toán – Thống kê nhưng do thời gian có hạn, cùng với khả năng và thực tiễn chưa nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong được thầy giáo có những nhận xét và sửa đổi giúp em hoàn thiện đề tài. Em xin chân thành cảm ơn. Đề tài: “Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện “ được chia thành ba phần: Phần 1: Những vấn đề chung về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp sản xuất. Phần 2: Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện. Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện. Phần I Những vấn đề chung về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp sản xuất. I. TSCĐ và đặc điểm của TSCĐ trong các doanh nghiệp 1.1 Khái niệm và đặc điểm của TSCĐ Để có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh doanh bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần có đầy đủ ba yếu tố về lao động là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Khác với các đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản xuất dở dang, bán thành phẩm…) thì các tư liệu lao động (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong tư liệu lao động sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là TSCĐ. Đó là các tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như: máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, các khoản đầu tư mua sắm TSCĐ hữu hình… TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thông thường một tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải đồng thời thảo mãn hai tiêu chuẩn cơ bản: - Một là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ 1 năm trở lên - Hai là, phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức cố định, tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá của từng thời kỳ. ở nước ta hiện nay theo quy định 206/2003/QĐ - BTC của Bộ tài chính quy định. * Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ hữu hình. Mọi tư liệu lao động là tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ kết hợp với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không hoạt động được, nên nếu thoả mãn đồng thời 4 tiêu chuẩn sau thì được coi là tài sản cố định: - Chắc chắn thu được lợi ích trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó - Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên - Có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên - Nguyên giá tài sản được xác định một cách tin cậy Trong trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì những bộ phận đó được coi là TSCĐ hữu hình độc lập. * Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ vô hình: Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời 4 điều kiện trên mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Nếu khoản chi phí này không đồng thời thoả mãn cả 4 tiêu chuẩn trên thì được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bổ vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Từ những nội dung trên có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ như sau: Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất còn giá trị của nó thì được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị của sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất. Đặc điểm chung của TSCĐ là khi sử dụng bị hao mòn dần và giá trị hao mòn dần được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm hàng hoá và được bù đắp khi doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá. Trong quá trình sử dụng TSCĐ không thay đổi về hình thái vật chất bên ngoài và đặc tính sử dụng ban đầu của nó. TSCĐ biểu hiện trình độ và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp và có vai trò quyết định đến việc tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Thêm vào đó, thông qua việc trích khấu hao TSCĐ đã góp phần vào việc hình thành khả năng tự tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Do vậy với doanh nghiệp thực hiện sản xuất vật chất, TSCĐ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, đối với sự ra đời và tồn tại của doanh nghiệp. 1.2. Phân loại TSCĐ Do TSCĐ có những đặc điểm khác nhau nên cần phải phân loại TSCĐ thành những loại nhất định, phục vụ cho nhu cầu quả lý và sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp. Hiện nay TSCĐ thường được phân loại theo một số tiêu thức sau: * Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện. Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: - TSCĐ hữu hình Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng hình thái vật chất cụ thể có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mà vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật kiến trúc…Trong đó TSCĐ hữu hình có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc một hệ thống bao gồm nhiều tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay nhiều chức năng nhất định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh mà thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong hệ thống đó thì cả hệ thống không hoạt động được. - TSCĐ vô hình Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp , chi phí sử dụng đất… ý nghĩa: Cách phân loại này cho ta thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô hình từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hoặc cơ cấu dầu tư cho phù hợp và hiệu quả nhất. * Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng - TSCĐ đang ding: Là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc các hoạt động phúcc lợi, sự nghiệp hay an ninh quốc phòng của doanh nghiệp. - TSCĐ chưa dùng: Là những tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, song hiện tại chưa cần dùng còn dự trữ để sử dụng sau này. - TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: Là những TSCĐ đã hết thời hạn sử dụng hay những TSCĐ không cần thiết, không phù hợp với nhiệm vụ sản xuát kinh doanh của doanh nghiệp cần thanh lý, nghượng bán để thu hồi vốn đầu tư bỏ ra ban đầu. ý nghĩa: Cách phân loại này giúp các nhà quản lý biết được tình hình tổng quát về số lượng, chất lượng TSCĐ hiện có, VCĐ tiềm tàng, hoặc ứ đọng, từ đó tạo đIũu kiện cho phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần khai thác và tìm cách thu hồi. * Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng. - TSCĐ định thco mục đích sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ hữu hình và vô hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp. - TSCĐ phục vụ cho sự nghiệp phúc lợi, an ninh quốc phòng - TSCĐ bảo quản giữ hộ, cất hộ: Là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ doanh nghiệp khác hoặc nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước có them quyền. ý nghĩa: Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp they được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng của nó, từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả. * Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu - TSCĐ tự có: Là các TSCĐ mua sẵm và hình thành từ nguốn vốn ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguốn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu… - TSCĐ thuê ngoài: Là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo hợp đồng đã ký. Tuỳ theo điều khoản của hợp đồng mà TSCĐ đi thuê được chia thành TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động. ý nghĩa: Phân loại TSCĐ theo phương pháp này giúp cho việc quản lý và tổ chức hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, và sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao nhất. * Phân loại TSCĐ theo đặc trưng kỹ thuật TSCĐ hữu hình được chia thành các loại sau: Nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị dụng cụ quản lý… TSCĐ vô hình được chia thành các loại sau: Quyền sử dụng đất, chi phí thành lập và chuẩn bị sản xuất, bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lưọi thế thương mại và các TSCĐ vô hình khác. ý nghĩa: Cách phân loại này cho they công dụng cụ thể của tong loại TSCĐ trong doanh nghiệp, tạo đIều kiện thuận lợi cho việc sử dụng TSCĐ và trích khấu hao TSCĐ một cách chính xác. 1.3. Vai trò của TSCĐ trong doanh nghiệp * Đối với nền kinh tế TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Đó là một yếu tố không thể thiếu được đối với sự tồn tại của bất cứ một quốc gia nào, một doanh nghiệp nào. Vì nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là những tư liệu lao động chủ yếu được ví như “hệ thống xương cốt bắp thịt của quá trình SXKD”. TSCĐ là khí quan để con người thông qua đó tác động vào đối tượng lao động biến noa, bắt nó phục vụ cho con người. * Đối với con người Con người được hưởng thành quả cuối cùng của một hệ thống TSCĐ tiên tiến. Nhờ có TSCĐ hiện đại mà quá trình sản xuất sẽ rút ngắn, lao động của con người thuận lợi hơn, đỡ nặng nhọc hơn và có năng suất lao động cao hơn, kết quả sản xuất lớn hơn, do đó mà điều kiện làm việc và đời sống được nâng cao. * Đối với doanh nghiệp Trình độ trang thiết bị TSCĐ quyết định năng lực sản xuất lao động, chi phí giá thành, chất lượng sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Nếu doanh nghiệp nào trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến sẽ giảm được mức tiêu hao nguyên vật liệu và cho ra những sản phẩm chất lượng tốt và có sức hút cao đối với khách hàng. * Đối với xã hội Trình độ công nghệ sản xuất ở mức độ nào thì nói lên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mức độ tương ứng và là căn cứ phân biệt thời đại này với thời đại khác. Phương thức sản xuất cổ truyền khác phương thức sản xuất hiện đại ở chỗ sản xuất như thế nào và sản xuất bằng cái gì. Chính lực lưọng sản xuất đã thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển và làm thay đổi phương thức sản xuất. Từ những phân tích trên ta càng thấy rõ được vai trò quan trọng của TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà TSCĐ phải luôn được duy trì, kéo dài tuổi thọ và đầu tư đổi mới công nghệ. 1.4. Kết cấu TSCĐ Với mỗi cách phân loại trên có ý nghĩa khác nhau nhưng ở chúng có ý nghĩa chung quan trọng đó là cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau giúp cho nhà quản lý tính toán chính xác số tiền trích lập quỹ khấu hao. Do vậy kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó chiếm trong tổng nguyên giá toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Trong các ngành kinh tế khác nhau hay trong cùng một ngành kinh tế thì kết cấu của TSCĐ đều không giống nhau. Sự khác nhau về kết cấu trong trong ngành và trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là do đặc điểm riêng biệt về hoạt động sản xuất kinh doanh của chúng quyết định. 1.5. Đánh giá TSCĐ Đánh giá TSCĐ là biểu hiện giá trị TSCĐ bằng tiền theo những nguyên tắc nhất định, là điều kiện cần thiết để hạch toán TSCĐ, trích khấu hao và phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu quản lý TSCĐ trong quá trình sử dụng TSCĐ được đánh giá theo nguyên giá và giá trị còn lại. - Đánh giá TSCĐ theo nguyên giá Là toàn bộ các chi phí mà các doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ cho đến khi đưa TSCĐ vào hoạt động bình thường, bao gồm: giá mua thực tế, lãi vay, đầu tư TSCĐ khi chưa bàn giao đưa vào sử dụng, thuế, lệ phí trước bạ. Tuỳ theo từng loại TSCĐ mà nguyên giá của nó được xác định khác nhau. Cách đánh giá này có thể cho doanh nghiệp thấy được số vốn đầu tư, mua sắm TSCĐ ở thời điểm ban đầu, là căn cứ để xác định số tiền phải trả khách hàng để tái sản xuất giản đơn. - Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại Giá trị còn lại của TSCĐ là phần giá trị chưa chuyển vào giá trị sản phẩm. Giá trị còn lại có thể tính theo giá trị ban đầu. Mỗi cách đánh giá đều có ý nghĩa tác dụng riêng, cho phép chúng ta thấy mức độ thu hồi vốn đầu tư đến thời điểm đánh giá, từ đó đưa ra chính sách khấu hao thu hồi số vốn đầu tư còn lại để bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó ta có công thức sau: Giá trị còn lại TSCĐ = Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế Giá trị hao mòn luỹ kế là tổng giá trị hao mòn TSCĐ tính từ lúc bắt đầu sử dụng cho đến thời điểm nghiên cứu. Giá trị còn lại của TSCĐ trên Đánh giá lại TSCĐ = * Hệ số giá sổ sách trước khi đánh giá Giá thị trường của TSCĐ tại thời điểm đánh giá Hệ số giá = Giá trị còn lại của TSCĐ trên sổ sách 1.6. Khấu hao TSCĐ Khấu hao TSCĐ nhằm để bù đắp giá trị TSCĐ hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải dịch chuyển dần dần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ. Việc khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao đúng đắn là nội dung quan trọng trong việc quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp. Thông thường có những phương pháp tính khấu hao sau: * Phương pháp khấu hao tuyến tính (khấu hao đường thẳng) Đây là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian sử dụng. Theo phương pháp này mức khấu hao cơ bản hàng năm của TSCĐ được tính theo công thức: Nguyên giá TSCĐ Mức khấu hao trung bình hàng năm của TSCĐ = Thời gian sử dụng - Ưu nhược điểm: + Ưu điểm: Phương pháp này đơn giảm, dễ tính, dễ hiểu. Doanh nghiệp có thể ổn định chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm do mức khấu hao được phân bổ đều qua các năm. + Nhược điểm: Do TSCĐ phải chịu nhiều các yếu tố tác động tới nên trong những thời kỳ khác nhau TSCĐ có những hao mòn khác nhau. Vì vậy phương pháp này không đem lại cho người quản lý những thông tin chính xác về mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ trong các thời kỳ sử dụng khác nhau. - Điều kiện áp dụng: Các TSCđ tham gia vào hoạt động kinh doanh đều được trích khấu hao theo phương pháp này. Đây là phương pháp khấu hao khá đơn giản và được áp dụng hầu hết cho các TSCĐ trong doanh nghiệp. * Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần. Theo phương pháp này số tiền khấu hao từng năm của TSCĐ được xác định bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ đầu năm tính khấu hao nhân với một tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm, có thể được xác định qua công thức: Công thức: Mki = Gđi * Tkh Trong đó: Tkh = Tk * Hs Mki : Số tiền khấu hao TSCĐ năm i Gđi : Giá trị còn lại của TSCĐ năm thứ i Tkh : Tỷ lệ khấu hao hàng năm của TSCĐ Tk : Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp tuyến tính Hs : Hệ số điều chỉnh Hệ số: + 1,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 3 đến 4 năm + 2,0 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 5 đến 6 năm + 2,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 6 năm trở lên * Phương pháp khấu hao theo tổng số: Theo phương pháp này, số khấu hao của từng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao của từng năm: Công thức: Mkt = NG * Tkt Với: Số năm sử dụng Tkt = Tổng số các năm sử dụng còn lại của TSCĐ Mkt: Số tiền khấu hao TSCĐ năm thứ t (t = 1,n) NG: Nguyên giá TSCĐ Tkt: Tỷ lệ khấu hao TSCĐ năm thứ t II. Hiệu quả sử dụng TSCĐ và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ 2.1. Hiệu quả sử dụng TSCĐ Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó quản lý và sử dụng TSCĐ là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua đó, thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các khả năng sẵn có, biết mình đang ở giai đoạn nào trong quá trình phát triển, đang ở vị trí nào trong quá trình đua tranh với các doanh nghiệp khác. Hiệu quả sử dụng TSCĐ là một phần của công tác đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp phải cố gắng tối đa trên nhiều lĩnh vực trong đó phải tìm ra cách nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của mình. Vậy: ‘Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời tối đa với chi phí thấp “. 2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp Việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay là rất cần thiết, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ các lý do chủ yếu sau đây: - Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nhất nói lên kết quả nhiều mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là nguồn tích luỹ cơ bản để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp
Tài liệu liên quan