Xây dựng cơ bản là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Đây là ngành mũi nhọn trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Thành công của ngành xây dựng cơ bản trong những năm qua là điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
60 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính Công ty xây lắp 665, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Xây dựng cơ bản là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Đây là ngành mũi nhọn trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Thành công của ngành xây dựng cơ bản trong những năm qua là điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Để đầu tư xây dựng cơ bản đạt được hiệu quả cao doanh nghiệp phải có biện pháp thích hợp quản lý nguồn vốn, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát trong sản xuất, quá trình xây dựng cơ bản bao gồm nhiều khâu ( thiết kế, lập dự án, thi công, nghiệm thu ...) do địa bàn thi công luôn thay đổi, thời gian thi công kéo dài nên công tác quản lý tài chính thường phức tạp, có nhiều điểm khác biệt so với các ngành kinh doanh khác.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường nhà nước đã trao quyền tự chủ cho các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp phải thực sự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình, cụ thể là phải tự hạch toán lỗ lãi. Phân tích tài chính nhằm mục đích cung cấp thông tin về thực trạng tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn. Phân tích tài chính trở thành công cụ hết sức quan trọng trong quản lý kinh tế. Phân tích tài chính cung cấp cho nhà quản lý cái nhìn tổng quát về thực trạng của doanh nghiệp hiện tại, dự báo các vấn đề tài chính trong tương lai, cung cấp cho các nhà đầu tư tình hình phát triển và hiệu quả hoạt động, giúp các nhà chính sách đưa ra biện pháp quản lý hữu hiệu.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng là nội dung quan trọng trong phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế mở muốn khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, muốn chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh phần lớn phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh sẽ được đánh giá qua phân tích tài chính, các chỉ tiêu phân tích sẽ cho biết bức tranh về hoạt động của doanh nghiệp giúp tìm ra hướng đi đúng đắn, có các chiến lược và các quyêt định kịp thời nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Trong khoá luận với đề tài “Phân tích tình hình tài chính Công ty xây lắp 665” tôi muốn đề cập tới một số vấn đề mang tíng lý thuyết về việc phân tích tình hình tài chính của Công ty xây lắp 665.
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp .
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của Công ty xây lắp 665
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính
Do thiếu kinh nghiệm thực tế và hiểu biết về đề tài còn mang nặng tính lý thuyết nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót.Tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn Công ty Công ty xây lắp 665 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong thời gian tôi thực tập tại công ty. Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Anh Đào, các thầy cô và các bạn giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Chương I
Một số vấn đề lý luận chung về phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
1.1. Tài chính doanh nghiệp và các mối quan hệ của tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của tài chính doanh nghiệp
Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng là tiền tệ thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế – xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong việc phân phối các nguồn lực hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
Tài chính doanh nghiệp là khâu quan trọng trong hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường. Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Sự tồn tại, tính chất, mức độ phát triển của tài chính doanh nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Khi nền kinh tế thị trường xuất hiện đã làm xuất hiện hàng loạt quan hệ tài chính mới. Do vậy mà tính chất và phạm vi hoạt động của tài chính doanh nghiệp cũng có những thay đổi đáng kể.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, vốn của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ pháp luật.
Tài chính doanh nghiệp phản ánh các quan hệ kinh tế đa dạng trong các quá trình đó của hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có những đặc trưng sau:
- Tài chính doanh nghiệp phản ánh những luồng dịch chuyển giá trị trong nền kinh tế, đó chính là sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Nó thể hiện sự vận động của các nguồn tài chính được diễn ra giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế và tài trợ chính giữa các doanh nghiệp với thị trường hàng hoá, sức lao động, tài chính , thông tin, dịch vụ trong việc cung ứng các yếu tố sản xuất ( đầu vào) cũng như bán hàng hoá, dịch vụ ( đầu ra) của quá trình kinh doanh.
- Sự vận động của các nguồn tài chính doanh nghiệp không phải diễn ra một cách hỗn loạn mà nó được hoà nhập vào chu trình kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đó là sự vận động chuyển hoá từ các nguồn tài chính thành các quỹ hoặc vốn kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. Sự chuyển hoá qua lại được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị để tạo lập hoặc sử dụng tiền tệ; phục vụ cho các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
1.1.2. Chức năng và vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1. Chức năng
Chức năng của tài chính biểu hiện khả năng khách quan vốn có của phạm trù tài chính .
Tài chính doanh nghiệp có hai chức năng:
- Phân phối dưới hình thức giá trị xã hội.
- Giám đốc bằng đồng tiền hoạt động kinh doanh.
a.Chức năng phân phối: chức năng này giúp doanh nghiệp có khả năng khai thác, thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp . Trong quá trình sử dụng vốn cũng sử dụng chức năng phân phối, đó là việc cung ứng vốn cho các nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp hay cung ứng vốn cho thị trường vốn. Lợi nhuận thu được là mục đích của doanh nghiệp và cũng là yếu tố quan trọng nhất quyết định phương hướng và cách thức đầu tư, phân phối của doanh nghiệp.
b.Chức năng giám đốc: Bằng việc đo lường, cân nhắc giữa những chi phí bỏ ra và hiệu quả thu được, chức năng giám đốc có khả năng phát hiện các khuyết tật trong khâu phân phối để từ đó điều chỉnh quá trình phân phối nói riêng và phương hướng, chiến lược sản xuất kinh doanh nói chung.
Chức năng phân phối và chức năng giám đốc có quan hệ hữu cơ rất mật thiết với nhau. Nhờ có phân phối mà tài chính có khả năng giám đốc. Và ngược lại, nhờ có giám đốc mà phân phối mới hiệu quả và lành mạnh được.
1.1.2.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Nếu như trong nền kinh tế chỉ huy bao cấp của nước ta trước đây, vai trò của tài chính doanh nghiệp luôn thụ động, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh một cách hạn chế do sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào nền kinh tế thì khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với chính sách đổi mới và cơ chế năng động, cởi mở trong khuôn khổ pháp luật, vai trò của tài chính doanh nghiệp được đề cao và phát huy trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
-Tài chính doanh nghiệp là công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư, phát triển của doanh nghiệp :
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vai trò này không được đặt ra là nhu cầu cấp bách do có sự bảo hộ từ ngân sách nhà nước và các ngân hàng với lãi suất ưu đãi.
Khi sang nền kinh tế thị trường vốn luôn là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp nhu cầu đầu tư và được đầu tư ngày càng tăng, thị trường vốn hoạt động sôi nổi, thị trường chứng khoán ra đời.
Đây là môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau chủ động khai thác thu hút các nguồn vốn trong xã hội, từ nước ngoài.
-Tài chính doanh nghiệp có vai trò sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Đây là vai trò không kém phần quan trọng, được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp . Trước sức ép từ nhiều phía của thị trường, sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả luôn mang lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp .
-Tài chính doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ để kích thích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ tài chính như đầu tư, lãi suất, dịch vụ, tiền lương, thưởng…để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn….
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp .
Tình hình tài chính doanh nghiệp phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một giai đoạn. Thông qua số liệu kế toán, các chỉ tiêu tài chính có thể đánh giá được thực trạng của doanh nghiệp từ đó tìm ra nguyên nhân và khắc phục, điều chỉnh quá trình kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu dự định.
1.1.3.Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Để đảm bảo thực hiện được các chức năng của mình tài chính doanh nghiệp cần được thực hiện đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Tôn trọng pháp luật
- Tôn trọng nguyên tắc hạch toán kinh doanh
- Công tác tổ chức tài chính phải luôn giữ được chữ tín
- Tổ chức phải đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro bất trắc
1.1.4. Các mối quan hệ trong tài chính doanh nghiệp chủ yếu
1.1.4.1. Xét trong phạm vi hoạt động
- Quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với nhà nước: Quan hệ này thể hiện trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa ngân sách nhà nước với các doanh nghiệp thông qua hình thức doanh nghiệp nộp thuế vào ngân sách theo luật định. Nhà nước cũng tham gia cấp phát vốn đối với các doanh nghiệp nhà nước hoặc tham gia với tư cách người góp vốn trong các doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và thị trường (thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường tài chính) ….Đây là những quan hệ về mua bán, trao đổi các yếu tố phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp . Khác hẳn với thời kỳ bao cấp, trong cơ chế thị trường các quan hệ này được phát triển mạnh mẽ.
- Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp: là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các thành viên (hoặc cổ đông) trong nội bộ doanh nghiệp và các quan hệ thanh toán hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp và công nhân viên chức.
1.1.4.2 Xét theo nội dung kinh tế
Xét về nội dung kinh tế, các quan hệ tài chính doanh nghiệp chia làm ba nhóm sau:
- Các quan hệ tài chính nhằm mục đích khai thác, thu hút vốn: Đó là những quan hệ về vay vốn, phát hành trái phiếu, cổ phiếu…nhằm tạo lập vốn kinh doanh của doanh nghiệp ở cơ chế thị trường hiện nay, hình thức huy động vốn rất phong phú. Cũng nhờ vào các mối quan hệ tài chính việc khai thác, thu hút vốn sẽ hiệu quả hơn.
- Các quan hệ tài chính về phân phối thu nhập và lợi nhuận: Những quan hệ này có liên quan đến nhiều đối tượng, chủ thể phân phối, như: liên quan đến nhà nước trong việc nộp thuế, liên quan đến ngân hàng trong thanh toán lãi, tín dụng, liên quan đến cổ đông trong việc thanh toán cổ tức, liên quan đến nội bộ doanh nghiệp trong việc bù đắp các chi phí của yếu tố đầu vào, việc phân bổ các quỹ của doanh nghiệp .
Mục đích cao nhất và quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là giúp cho những người ra quyết định lựa chọn được phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp. Cũng giống mục đích trên, khi nghiên cứu tình hình tài chính, khi xem xét các mối quan hệ của tài chính doanh nghiệp có những điểm chung:
+ Phản ánh luồng vận động, chuyển dịch giá trị, sự vận động của các nguồn tài chính nảy sinh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
+ Sự vận động, chuyển hoá của các nguồn tài lực trong kinh doanh không phải là hỗn loạn mà được điều chỉnh bằng hệ thống quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị thông qua việc tạo lập và sử dụng các loại quỹ tiền tệ, vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Động lực của sự vận động và chuyển hoá các nguồn tài lực là nhằm mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp:
1.2.1. Khái niệm - ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Đây cũng là quá trình xem xét, kiểm tra đối chiếu và so sánh về các số liệu tài chính hiện hành với quá khứ, thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp .Từ đó
Có thể đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định quản lý và tài chính phù hợp.
1.2.1.2. ý nghĩa
Trong cơ chế mở các doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong giới hạn pháp luật cho phép. Do đó rất nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động và đầu chú trọng đến tình hình tài chính: chủ sở hữu của các doanh nghiệp, các cổ đông, nhà đầu tư, nhà tài trợ, nhà cung ứng, khách hàng, các cơ quan nhà nước, các công nhân viên…Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính dưới các góc độ khác nhau:
- Với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp: mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận, khả năng phát triển, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra các nhà quản trị còn quan tâm đến nhiều mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín, mở rộng thị trường, đóng phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường…Do đó họ quan tâm trước hết đến lĩnh vực đầu tư và tài trợ, đó chính là lượng thông tin doanh nghiệp cần để đánh giávà cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán tình hình tài chính nhằm đưa ra quyết định, kế hoạch đúng đắn.
- Với ngân hàng và các chủ nợ khác: Mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó người cho vay cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp vì nó là cơ sở của việc và lãi cho vay dài hạn.
- Với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ nhờ vào tình hình tài chính họ sẽ quyết định được vấn đề bán chịu và cho trả chậm. Cũng như chủ ngân hàng và những người cho vay tín dụng, nhóm người này cũng cần phải biết được khả năng thanh toán hiện tại và tương lai của khách hàng.
- Với các nhà đầu tư: quan tâm nhiều đến yếu tố rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lời và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Vì vậy họ cần thông tin về tình hình tài chính, hoạt động của vốn, kết quả sản xuất kinh doanh, tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những mối quan tâm trên nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả do dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư.
- Với các đối tượng khác: Cơ quan tài chính, thuế, nhà phân tích, khách hàng…cũng có nhu cầu về thông tin cơ bản giống nhóm trên bởi nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
Phân tích tài chính doanh nghiệp mà chủ yếu là phân tích báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua hệ thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ những góc độ khác nhau có thể đánh giá toàn diện, tổng quát, vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Từ đó có thể nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2.2. Mục tiêu của phân tích tài chính
Căn cứ trên các nguyên tác về tài chính của doanh nghiệp, đánh giá khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, thực trạng và triển vọng của hoạt động tài chính, vạch ra những mặt tích cực và những mặt tiêu cực và tồn tại của việc thu chi tiền tệ, xác định nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố.Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tích cực nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh, hướng tới 3 mục tiêu cơ bản sau:
- Nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và các người sử dụng thông tin khác để cho họ có thể ra quyết định phương hướng và quy mô đầu tư, tín dụng và các quyết định khác.Thông tin phải dễ hiểu đối với người có trình độ tương đối về kinh doanh và về hoạt động kinh tế muốn nghiên cứu các thông tin này.
- Cung cấp thông tin giúp người sử dụng có thể đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền từ cổ tức hoặc tiền lãi. Vì các dòng tiền của nhà đầu tư liên quan với các dòng tiền của doanh nghiệp nên quá trình phân tích phải cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của các đồng tiền thuần dự kiến thu được của doanh nghiệp .
- Cung cấp thông tin về các nguồn lực kinh tế của doanh nghiệp, nghĩa vụ của doanh nghiệp tới các nguồn lực này và tác động của những nghiệp vụ kinh tế; những sự kiện và những tình huống mà tác động làm thay đổi các nguồn lực cũng như nghĩa vụ đó.
1.2.4. Đối tượng phân tích tài chính doanh nghiệp
Để tiến hành phân tích tình hình tài chính, người phân tích phải sử dụng rất nhều tài liệu khác nhau, trong đó chủ yếu là các báo cáo tài chính. Vì vậy căn cứ để phân tích là dựa vào các báo cáo tài chính.
Vai trò của các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp:
+ Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế – tài chính cần thiết, giúp kiểm tra, phân tích một cách tổng hợp, toàn diện, có hệ thống, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của doanh nghiệp.
+ Cung cấp những thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành các chính sách, các chế độ kinh tế – tài chính của doanh nghiệp.
+ Cung cấp những thông tin và số liệu cần thiết để phân tích, đánh giá những khả năng và tiềm năng kinh tế – tài chính của doanh nghiệp, giúp công tác dự báo và lập các kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp.
1.2.4.1. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp và nguồn tài trợ cho những tài sản đó tại một thời điểm cụ thể, dưới hình thái tiền tệ.
Về bản chất bản cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với nguồn vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả.
Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng để nghiên cứu, đánh giá tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp .
Kết cấu của bảng gồm hai phần: Phần tài sản và phần nguồn vốn.
- Phần tài sản phản ánh toàn bộ tài sản hiện có tại thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và dụng của doanh nghiệp .
+ Về mặt kinh tế: Thông qua phần tài sản có thể đánh giá tổng quát quy mô về tài sản, tính chất hoạt động, năng lực và trình độ sử dụng vốn.
+ Về mặt pháp lý: Số liệu ở phần tài sản thể hiện tiềm lực về số vốn mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai.
- Phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo.
+ Về mặt kinh tế: Phần nguồn vốn cho phép người sử dụng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
+ Về mặt pháp lý: cho biết trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành bằng các loại vốn vay cũng như trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ với người lao động, với cổ đông, với nhà cung cấp, với nhà nước.
Đặc trưng cơ bản của bảng là mỗi phần đều có số tổng cộng và tổng cộng của hai phần luôn bằng nhau:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
Trong đó:
Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu = Tài s