Đất nước ta đang trong quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy việc phân tích tài chính và quản lý tài chính doanh nghiệp cũng phải được thay đổi cho phù hợp với xu hướng phát triển đó. Hơn nữa nền kinh tế thị trường chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu. Và đặc biệt nước ta đã và sẽ hội nhập chủ động hiệu quả vào khu vực AFTA/ASEAN,
36 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần điện tử Biên Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
&
Đất nước ta đang trong quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy việc phân tích tài chính và quản lý tài chính doanh nghiệp cũng phải được thay đổi cho phù hợp với xu hướng phát triển đó. Hơn nữa nền kinh tế thị trường chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu. Và đặc biệt nước ta đã và sẽ hội nhập chủ động hiệu quả vào khu vực AFTA/ASEAN, mức độ mở cửa hàng hoá dịch vụ tài chính đầu tư sẽ đạt và ngang bằng với các nước trong khối ASEAN từng bước tạo điều kiện nặng về kinh tế, về pháp lý để hội nhập sâu hơn về kinh tế khu vực và thế giới. Do đó vấn đề phân tích và quản lý tài chính doanh nghiệp là một khâu trọng tâm của quản lý doanh nghiệp.
Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp cũng như xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thông tin có thể đánh giá tiềm năng , hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các bước tài chính là tài liệu chủ yếu để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vì nó phản ánh một cách tổng hợp nhất về tình hình công nợ, nguồn vốn, tài sản các chỉ tiêu về tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên những thông tin mà báo cáo tài chính cung cấp là chưa đầy đủ vì nó không giải thích được cho người quan tâm biết được rõ về thực trạng hoạt động tài chính những rủi ro, triển vọng và xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Phân tích tình hình tài chính sẽ bổ khuyết cho sự thiếu hụt này.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp kết hợp với kiến thức lý luận được tiếp thu ở nhà trường và tài liệu tham khảo thực tế cùng với sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của cô Huỳnh Bá Thúy Diệu, nhóm chúng em đã nghiên cứu đề tài này với nội dung “Phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần điện tử Biên Hòa”. Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính.
Phần II: Phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần điện tử Biên Hòa từ 2007-2009.
Phần III: Một số biện pháp cải thiện tình hình tài chính của công ty.
Do kiến thức thực tế và hiểu biết còn hạn chế, nhóm 21 mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để nhóm có thể có cách nhìn sâu sắc hơn, thực tế hơn giúp cho nhóm tiếp nhận kiến thức của chuyên nghành mình thuận lợi và áp dụng tốt công việc sau này.
Nhóm 21 xin chân thành cảm ơn đến giảng viên Huỳnh Bá Thúy Diệu đã trực tiếp hướng dẫn nhóm hoàn thành đồ án này.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
STT
THUẬT NGỮ
GIẢI THÍCH
1
CP
Chi phí
2
CCDV
Cung cấp dịch vụ
3
TSCĐ
Tài sản cố định
4
TTS
Tổng tài sản
5
PE
Giá trên thu nhập
6
EPS
Lãi cơ bản trên thu nhập
7
ROA
Thu nhập trên tổng tài sản
8
ROE
Thu nhập trên vốn chủ sở hữu
9
VCSH
Vốn chủ sở hữu
10
LNST
Lợi nhuận sau thuế
11
NNH
Nợ ngắn hạn
12
TSNH
Tài sản ngắn hạn
13
LN
Lợi nhuận
14
GVHB
Giá vốn hàng bán
15
SXKD
Sản xuất kinh doanh
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm, hệ thống, chức năng và vai trò của tài chính
1.1.1. Khái niệm về tài chính
Tài chính là phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.Phát sinh trong quá trình hình thành, tạo lập, phân phối các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về tài chính.
Định nghĩa 1: Dựa vào quan điểm P.J.Drake, tài chính đơn thuần phản ánh hoạt động thu chi tiền tệ của chính phủ, đó là theo nghĩa hẹp. Còn theo nghĩa rộng hơn thì tài chính phản ánh các khoản vay và cho vay ảnh hưởng đến mức cung tiền.
Định nghĩa 2: Theo từ điển kinh tế học hiện đại, tài chính hiển thị vốn dưới dạng tiền tệ, nghĩa là ở các khoản có thể vay mượn hay đóng góp vốn thông qua thị trường tài chính hay các định chế tài chính. Nói cách khác, tài chính phản ánh hoạt động mà các cá nhân, công ty và tổ chức tạo lập tiền tệ và sử dụng nguồn tiền tệ để đáp ứng những nhu cầu phát triển khác nhau.
Khi xã hội có sự phân công về lao động, có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, nền sản xuất hàng hóa ra đời và tiền tệ xuất hiện. Các quỹ tiền tệ được tạo lập và được sử dụng bởi các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân nhằm mục đích tiêu dùng và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Các quan hệ kinh tế đó đã làm nảy sinh phạm trù tài chính.
Cùng với quá trình phát triển của xã hội, khi Nhà nước ra đời đã thúc đẩy sự phát triển của hoạt động tài chính. Nhà nước, với chức năng, quyền lực và để duy trì hoạt động của mình đã tạo lập quỹ ngân sách nhà nước thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, hình thành lĩnh vực tài chính nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy và mở rộng phạm vi hoạt động của tài chính.
Các mối quan hệ tài chính
Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư.
Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian (như ngân hàng, quỹ tiền tệ) với các cơ quan, tổ chức kinh tế phi tài chính, dân cư.
Quan hệ giữa các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư với nhau.
Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia...
1.1.2. Hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính bao gồm;
Ngân sách Nhà nước
Tài chính doanh nghiệp
Tài chính hộ gia đình, cá nhân
Tài chính của các tổ chức không vì lợi nhuận
Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian.
Hoạt động bảo hiểm
Các thành phần này có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của tài chính.
1.1.3. Chức năng của tài chính
Chứa năng của tài chính là sự cụ thể hóa bản chất của tài chính, nó mở ra nội dung của tài chính và vạch rõ tác dụng xã hội của tài chính. Chức năng của tài chính là chức năng bên trong, biểu lộ tác dụng xã hội của nó và tác dụng đó chỉ có thể có được với sự tham gia nhất thiết của con người. Tài chính vốn có hai chức năng cơ bản, chức năng phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới dạng hình thái tiền tệ và chức năng giám đốc bằng tiền đối với toàn bộ hoạt động kinh tế xa hội(gọi tắc là chức năng giám đốc).
1.1.3.1. Chức năng huy động
Đây là chức năng tạo lập các nguồn tài chính, thể hiện khả năng tổ chức khai thác các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Việc huy động vốn phải tuân thủ cơ chế thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả của vốn.
1.1.3.2. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối của tài chính là một khả năng khách quan của phạm trù tài chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan đó để tổ chức việc phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Khi đó, tài chính được sử dụng với tư cách một công cụ phân phối.
Khái niệm
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ đó, các nguồn tài lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau, để sử dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu, những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.
Phân phối tài chính phải xác định quy mô, tỉ trọng của đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân phù hợp với khả năng và sự tăng trưởng kinh tế ở mỗi thời kì nhất định.
Phân phối tài chính phải bảo đảm giải quyết thỏa đáng giữa tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư.
Phân phối phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ về lợi ích kinh tế của những chủ thể tham gia phân phối.
Phân phối phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong từng khâu riêng biệt.
Phân phối phải bảo đảm tạo lập và chu chuyển nguồn vốn, bảo đảm quá trình tái sản xuất xã hội bình thường.
Đặc điểm của phân phối tài chính:
Phân phối của tài chính luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo với sự thay đổi hình thái giá trị.
Phân phối tài chính bao hàm cả quá trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối lại.
Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là quá trình phân phối chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất hay thực hiện các dịch vụ. Chủ thể phân phối: doanh nghiệp, người lao động, nhà nước, ngân hàng,... Kết quả phân phối: Hình thành nên các phần thu nhập của các chủ thể phân phối.
Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản đã hình thành qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau, thỏa mãn nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội.
1.1.3.3. Chức năng giám sát
Đây là chức năng kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thông qua chức năng này để kiểm tra và điều chỉnh các quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của mỗi thời kỳ, kiểm tra các chế độ tài chính của Nhà nước...
1.1.4. Vai trò của tài chính
Tài chính- công cụ phân phối tổng sản phẩm quốc dân: kinh tế thị trường là một nên kinh tế mà trước hết mọi sản phẩm của sản xuất đều mang tính chất hang hóa với đúng nghĩa của nó. Tức là một nền kinh tế mà mọi sản phẩm sản xuất ra đều được tiêu thụ trên thị trường với giá cả được xác định chủ yếu theo quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Nền kinh tế đó không chấp nhận kiểu phân phối theo mệnh lệnh hành chính với giá cả ép buộc không phản ánh đúng giá trị của hàng hóa, mà trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã áp dụng trong nền kinh tế đó nước ta đã thực hiện một chính sách phân phối như vậy, do đó đã không sử dụng hiệu quả tiềm năng của đất nước, nền kinh tế bị trì trệ trong thời gian dài. Công cụ tài chính đã làm sôi động nên kinh tế trong các quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; hướng các nguồn tài chính vào những điểm xung yếu nhất cần thiết nhất và có hiệu quả nhât để phát triển kinh tế xã hôi.
Tài chính- công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nên kinh tế: Vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nên kinh tế xã hội được thể hiện trong việc định hướng, khuyến khích, hướng dẫn và điều tiết các quan hệ kinh tế phát triển theo đường lối, chính sách, luật pháp của nhà nước, theo hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân.
1.2. Khái niệm, ý nghĩa, mục tiêu về phân tích tài chính
1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính
Phân tích tài chính là quá trình sử dụng các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để phân tích và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mục đích của phân tích tài chính là nhằm nhận định trạng thái tài chính của doanh nghiệp và làm cơ sở để ra các quyết định đầu tư và tài trợ nhằm nâng cao giá trị tài sản của doanh nghệp.
Thực hiện phân tích tài chính của công ty có thể do các nguyên nhân sau:
Bản thân doanh nghiệp.
Các tổ chức bên ngoài doanh nghiệp bao gồm các nhà cung cấp vốn như ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, nhà cung cấp… và các nhà đầu tư như công ty chứng khoán, nhà đầu tư tổ chức hay nhà đầu tư cá nhân…
Các báo cáo tài chính thường được sử dụng gồm: bảng tổng kết tài sản ( bảng cân đối kế toán), báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ( báo cáo thu nhập), báo cáo nguồn sử dụng ngân quỹ ( luân chuyển tiền tệ), báo cáo lợi nhuận để lại…
1.2.2. Ý nghĩa của việc phân tích tình hình tài chính
Phân tích báo cáo tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích báo cáo tài chính. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà cho vay tiềm tàng, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty đang được phân tích, thì mục tiêu cuối cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định hợp lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy trình mới, tất cả sẽ phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có chất lượng. Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng của phạm vi phân tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi. Chẳng hạn, cả những người mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều phân tích các báo cáo tài chính và coi đó như là một công việc hỗ trợ cho việc ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong những phân tích của họ sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm nhiều hơn tới khả năng cơ động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá trị lý giải của các tài sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng quan tâm hơn đến khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc trưng chung.
Thông thường, báo cáo tài chính được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Người cho vay muốn biết liệu doanh nghiệp đang tìm ngân quỹ có khả năng hoàn vốn lại không. Các nhà đầu tư quan tâm đến khả năng ổn định tài chính và phát sinh lợi nhuận cũng như thu nhập của doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm như thế nào trong tương lai. Những nhân viên có năng lực sử dụng báo cáo tài chính để đánh giá tình hình tài chính hoặc hoạt động kinh doanh hiện tại của một công ty trước khi họ ký kết hợp đồng lao động với công ty đó. Các cơ quan ban hành định chế cần các báo cáo tài chính để đánh giá hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp hoặc ngành công nghiệp đó.
Những thông số này giúp mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp, năng suất hoạt động, khả năng sinh lợi tương ứng, cũng như nhận thức của các nhà đầu tư được thể hiện thông qua hành vi của họ trên thị trường tài chính. Nó cũng giúp chuyên viên phân tích hoặc những người ra quyết định có khái niệm chung về nguồn gốc của một doanh nghiệp, hiện trạng và tiềm năng trong tương lai của doanh nghiệp đó. Trong hầu hết trường hợp, các thông số thường không nói lên đầy đủ bản chất của một doanh nghiệp, nhưng chúng có thể là sự khởi đầu.
1.2.3. Mục tiêu của phân tích tài chính
Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích báo cáo tài chính, đồng thời là mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh.
Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo. Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu.
Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Trong nhiều trường hợp người ta nhận thấy rằng, phần lớn công việc phân tích báo cáo tài chính bao gồm việc xem xét cẩn thận, tỷ mỉ các báo cáo tài chính, thậm chí cả việc đọc kỹ lưỡng hơn đối với các chú thích và việc sắp xếp lại hoặc trình bày lại các số liệu sẵn có để đáp ứng nhu cầu của người phân tích. Khi đó, người ta có thể hỏi tại sao không thể chấp nhận các báo cáo tài chính đã chuẩn bị theo các mệnh giá, nói cách khác là tại sao lại “can thiệp vào các con số” ngay từ đầu? Câu trả lời hiển nhiên là, hầu như luôn luôn phải có can thiệp đôi chút để “hiểu rõ các con số”. Nhìn chung, đòi hỏi phải có sự phân tích nào đó với tư cách là bước đầu tiên đối với báo cáo tài chính đã được chuẩn bị nhằm chắt lọc các thông tin từ các số liệu trình bày trong báo cáo. Thứ hai, hầu hết các quyết định được thực hiện trên cơ sở phân tích báo cáo tài chính là khá quan trọng, cho nên việc chấp nhận các số liệu tài chính đã trình bày lúc đầu thường là một cách làm không tốt. Về mặt tài chính, hầu hết các quyết định đều đòi hỏi phải sử dụng một kết cấu logic, trong đó, các cảm nghĩ và các kết luận có thể được phát triển một cách có hệ thống và có ý kiến đánh giá hợp lý.
1.3. Phương pháp phân tích tài chính
1.3.1. Thông tin trên báo cáo tài chính
Phân tích tài chính dựa trên nền thông tin căn bản là các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính là để cung cấp thông tin tài chính hữu ích về một doanh nghiệp cho các nhà dầu tư và người cho vay cũng như các bên hữu quan khác. Người đọc chính của báo cáo tài chính thường là người chủ, người đầu tư của doanh nghiệp và các chủ nợ của nó.
Có nhiều loại báo cáo tài chính khác nhau, tuy nhiên với những người phân tích bên ngoài nói chung, mỗi đối tượng sử dụng khác nhau, khả năng có được các báo cáo tài chính đó là khác nhau. Hệ thống báo cáo tài chính sử dụng cho các đối tượng bên ngoài công ty gồm có:
Bảng cân đối kế toán ( Bảng tổng kết tài sản).
Báo cáo kết quả hoạch định kinh doanh.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Đối với các nhà quản trị,báo cáo tài chính cho thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính, các xu hướng phát triển, các ưu và nhược điểm trong các hoạt động của công ty. Đối với các nhà đầu tư tiềm năng, báo cáo tài chính cung cấp các thông tin cần thiết để tìm hiểu các yếu tố rủi ro, khả năng hoàn vốn, khả năng bảo toàn và thanh toán vốn, sự tăng trưởng… Cụ thể hơn, họ ước lượng giữa giá trị hiện tại của khoảng đầu tư với giá trị tương lai mà họ có thể đạt được. hơn nữa họ còn nguyên cứu thu nhập hoạt động. Đặt biệt, họ muốn tìm ra các yếu tố tăng trưởng tìm năng như:
Công ty có nguồn tài năng nào?
Các nguồn đã được sử dụng như thế nào?
Công ty đang duy trì cơ cấu như thế nào?
Những rủi ro và cơ hội có thể có?
Các đòn bẫy tài chính.
Thời hạn, độ lớn, sự không chắc chắn của các ước đoán.
Báo cáo tài chính của một công ty thường được xuất phát từ hai báo cáo chính là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Từ hai báo cáo này, có những báo cáo phát sinh khác được hình thành như báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo lợi nhuận sau thế…
1.3.1.1. Bảng cân đối kế toán
Dùng phưong pháp phân tích theo chiều dọc và theo chiều ngang để:
Xem xét và đánh giá các khoản mục nợ ngắn hạn doanh nghiệp đang khai thác như vay ngắn hạn, phải trả người bán, người mua trả tiền trước,…có phù hợp không?
Xem xét, đánh giá các khoản nợ dài hạn doanh nghiệp đang sử dụng như thế nào.
Xem xét và đánh giá các khoản nợ khác như chi phí trả trước,..có phù hợp với mục đích sử dụng vốn hay không?
Xem xét và đánh giá nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp đang khai thác…
Phân tích mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Phân tích mối quan hệ giữa tài sản dài hạn và nợ dài hạn.
Và để xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp như thế nào, ta thường đi sâu vào phân tích chỉ tiêu luân chuyển vốn.
Vốn luân chuyển = Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Nguồn vốn chủ sở hữu
Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn = Nợ dài hạn + Nguồn vốn chủ sở hữu – Tài sản dài hạn
Vốn luân chuyển = Nợ dài hạn + Nguồn vốn chủ sở hữu – Tài sản dài hạn
1.3.1.2. Bảng báo cáo kết quả hoạt đông kinh doanh.
Sử dụng phương pháp so sánh theo chiều dọc và theo chiều ngang để:
Xem xét, thu nhập, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp có thực hay không?
Xem xét, thu nhập, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp thay đổi có phù hợp với đặc điểm chi phí, hiệu quả kin