Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có các yếu tố: lao động, tài chính và công nghệ. Trong đó tài chính là quan trọng nhất, quyết định sự làm ăn thành bại của doanh nghiệp. Cùng với sự đổi mới sâu sắc và mạnh mẽ của nền kinh tế nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước, mỗi doanh nghiệp phải tìm cho mình một hướng đi thích hợp để theo kịp xu hướng phát triển của đất nước nói riêng và thế giới nói chung. Vì vậy, nhu cầu tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cho đầu tư phát triển mở rộng thị trường là rất quan trọng. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có một nguồn tài chính vững mạnh mà cụ thể là phải có một nguồn vốn dồi dào, thì mới đáp ứng các yêu cầu trên.
77 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội thời kỳ 2002-2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có các yếu tố: lao động, tài chính và công nghệ. Trong đó tài chính là quan trọng nhất, quyết định sự làm ăn thành bại của doanh nghiệp. Cùng với sự đổi mới sâu sắc và mạnh mẽ của nền kinh tế nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước, mỗi doanh nghiệp phải tìm cho mình một hướng đi thích hợp để theo kịp xu hướng phát triển của đất nước nói riêng và thế giới nói chung. Vì vậy, nhu cầu tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cho đầu tư phát triển mở rộng thị trường là rất quan trọng. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có một nguồn tài chính vững mạnh mà cụ thể là phải có một nguồn vốn dồi dào, thì mới đáp ứng các yêu cầu trên.
Thực tế cho thấy rằng, với cơ chế mới, doanh nghiệp lúc này được tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự chủ tài chính, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn ổn định nguồn tài chính của riêng mình. Nhờ đó, nhiều doanh nghiệp đã thích nghi kịp thời với tình hình mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng rõ rệt, tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ; đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây lắp đang được mọi cấp, mọi ngành, mọi người trong toàn xã hội quan tâm. Thành công của ngành xây dựng đã tạo tiền đề không nhỏ đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên đất nước ta. Yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải xác định nhu cầu vốn thường xuyên, cần thiết, tối thiểu; xác định được doanh nghiệp hiện nay thừa hay thiếu vốn; hiệu quả sử dụng vốn ra sao và các giải pháp nào cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp mình. Đây cũng chính là những vấn đề đáng quan tâm hiện nay và thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư tài chính doanh nghiệp vì vốn là yếu tố chủ yếu quan trọng trong tình hình tài chính của công ty.
Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng là doanh nghiệp nhà nước (vốn nhà nước trên 50%), sản xuất kinh doanh năng động, nhiều chỉ tiêu kinh tế đạt và vượt so với kế hoạch đã đề ra, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, thực hiện nghĩa vụ đầy đủ đối với nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng vốn của doanh nghiệp sao cho hiệu quả sinh lợi với mức cao nhất, đang là bức súc của doanh nghiệp. Muốn vậy phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Từ vai trò, ý nghĩa thực tiễn nêu trên, trong thời gian thực tập em đã dần tiếp cận với thực tiễn và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trong suốt quá trình học tập. Đồng thời, khi đi sâu tìm hiểu thực tế và nghiên cứu về Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Phan Công Nghĩa và các phòng ban của công ty, đặc biệt là phòng tài chính kế toán, em càng thấy rõ được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề điều chỉnh và ổn định tình hình tài chính của công ty. Mà cụ thể hơn là vấn đề quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nói chung, của Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội nói riêng. Do đó, em xin chọn đề tài “Phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội thời kỳ 2002-2004” làm chuyên đề thực tập của mình.
2. Nội dung nghiên cứu
Như ta đã biết tài chính của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều chỉ tiêu, với giới hạn của đề tài, em xin phép đi sâu phân tích hệ thống chỉ tiêu về vốn sản xuất kinh doanh là nhân tố quyết định sự thành bại của đơn vị, trong giai đoạn hiện nay.
Gồm các nội dung sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về vốn sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu thống kê tình hình sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ với mặt chất của quá trình sử dụng vốn và giải pháp nhằm sử dụng vốn có hiệu quả. Cụ thể là đi sâu nghiên cứu qui mô, kết cấu, các quan hệ so sánh, các nhân tố liên quan đến quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là sử dụng số liệu thống kê và kế toán của Công ty cổ phần lắp máy điện nước thời kỳ 2002 đến 2004.
4. Kết cấu của đề tài
Nội dung của đề tài ngoài lời nói đầu và kết luận bao gồm những chương sau:
Chương I: Hệ thống chỉ tiêu thống kê về tình hình hoạt động tài chính tại Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội.
Chương II: Phương pháp thống kê phân tích tình hình hoạt động tài chính của Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội.
Chương III: Phân tích tình hình hoạt động tài chính tại Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội thời kỳ 2002-2004
CHƯƠNG I
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN LẮP MÁY ĐIỆN NƯỚC VÀ XÂY DỰNG HÀ NỘI
I. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
1. Doanh nghiệp và môi trường hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải bởi các cá nhân.
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh, tức là thực hiện một, một số hoặc tất các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm các: Doanh nghiệp Nhà Nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
1.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
Để đạt được mức doanh lợi mong muốn, doanh nghiệp cần phải có những quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và vận hành quá trình trao đổi. Mọi quyết định đều phải gắn kết với môi trường xung quanh. Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế xã hội phức tạp và luôn biến động. Có thể kể đến một số yếu tố khách quan tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp như:
- Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà Nước. Sự thắt chặt hay nới lỏng hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ chế quản lý tài chính.
- Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải dự tính được khả năng rủi ro, đặc biệt là rủi ro tài chính để có cách ứng phó kịp thời và đúng đắn. Doanh nghiệp, dưới sức ép của thị trường cạnh tranh, phải chuyển dần từ chiến lược trọng cung cổ điển sang chiến lược trọng cầu hiện đại. Những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hoá, về chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh tế hơn của khách hàng buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng cao.
- Doanh nghiệp thường phải đáp ứng được đòi hỏi của các đối tác về mức vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sử hữu có tác động đáng kể tới hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế khác nhau.
2. Tài chính của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Khái niệm tài chính
Tài chính của doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các nguồn vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đạt tới mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ của pháp luật. Tài chính doanh nghiệp phản ánh các quan hệ kinh tế đa dạng trong các quá trình đó của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ đó là:
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp với Nhà nước. Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn với doanh nghiệp.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ như vay ngắn hạn, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, gửi ngân hàng, đầu tư chứng khoán… Còn các nhà tài trợ được các doanh nghiệp trả lãi vay, vốn vay, lãi cổ phần.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp và các thị trường khác: Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động… Điều quan trọng là doanh nghiệp thông qua thị trường có thể xác định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị, nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các quan hệ này được sử dụng thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như chính sách cổ tức, chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn chi phí…
2.2. Tài chính của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý, sau nữa nó còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô - sự can thiệp và phương thức can thiệp bằng bàn tay hữu hình của Nhà nước vào nền kinh tế.
Trước đây, khi chưa có luồng gió đổi mới của Đảng, nền kinh tế ở nước ta với đặc điểm là đơn giản hoá hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện đó vai trò của tài chính doanh nghiệp đã trở nên hết sức thụ động, tác động của nó đến sản xuất kinh doanh là rất yếu ớt.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với những chính sách, cơ chế quản lý đổi mới hàng loạt, vai trò tài chính của doanh nghiệp ngày càng được đề cao và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có những vai trò sau:
- Tài chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp.
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò là đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. CHỈ TIÊU THỐNG KÊ VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ
1. Chỉ tiêu thống kê và hệ thống chỉ tiêu thống kê
1.1. Chỉ tiêu thống kê
Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện địa điểm và thời gian cụ thể. Tính chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê. Do đó chỉ tiêu thống kê phản ánh những mối quan hệ chung của tất cả các đơn vị tổng thể.
Chỉ tiêu thống kê có hai mặt: Khái niệm và mức độ.
- Khái niệm có nội dung là định nghĩa và giới hạn về thuộc tính, số lượng, thời gian của hiện tượng.
- Mức độ có thể biểu hiện bằng các thang đo khác nhau, phản ánh quy mô hoặc cường độ của hiện tượng.
Căn cứ vào nội dung, có thể chia các chỉ tiêu thống kê thành hai loại: Chỉ tiêu chất lượng và chỉ tiêu khối lượng:
- Chỉ tiêu chất lượng biểu hiện các tính chất, trình độ phổ biến, mối quan hệ của tổng thể. Có một số chỉ tiêu chất lượng không thể biểu hiện được bằng con số một cách trực tiếp (chỉ dừng lại ở các khái niệm và phải biểu hiện một cách gián tiếp thông qua các chỉ tiêu khác). Trong thống kê xã hội, người ta thường gặp loại này.
- Chỉ tiêu khối lượng biểu hiện qui mô của tổng thể.
Nhìn chung các hiện tượng mà thống kê cần nghiên cứu đều rất phức tạp. Để phản ánh chính xác chúng, cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê với 4 nguyên tắc sau:
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Hiện tượng càng phức tạp, nhất là các hiện tượng trừu tượng, số lượng chỉ tiêu cần nhiều hơn so với các hiện tượng đơn giản.
- Để thực hiện thu thập thông tin, chỉ cần điều tra các chỉ tiêu sẵn có ở cơ sở, nhưng cần hình dung trước số chỉ tiêu sẽ phải tính toán nhằm phục vụ cho việc áp dụng các phương pháp phân tích, dự đoán ở các bước sau.
- Để tiết kiệm chi phí, không để một chỉ tiêu thừa nào trong hệ thống.
1.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê
Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tổng hợp các chỉ tiêu có thể phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng và các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt, các tổng thể và giữa tổng thể nghiên cứu với các hiện tượng liên quan. Để phục vụ cho phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong một doanh nghiệp thì hệ thống chỉ tiêu bao gồm:
- Chỉ tiêu qui mô vốn sản xuất
- Chỉ tiêu cấu thành và kết cấu vốn
- Chỉ tiêu về tình hình trang bị vốn
- Chỉ tiêu hiệu quả của việc sử dụng vốn
2. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê về tình hình tài chính của doanh nghiệp
- Đảm bảo tính hướng đích: đối tượng nghiên cứu của thống kê thường là hiện tượng phức tạp. Vì vậy việc nghiên cứu phải có quá trình chặt chẽ và khoa học, các chỉ tiêu phải được áp dụng một cách khoa học và hiệu quả. Điều đó có nghĩa là chỉ tiêu được lựa chọn phải mô tả được sự kiện hiện tượng khác nhau trong quá trình hoạt động kinh tế xã hội, từ mặt lượng sang mặt chất với nhiều góc độ khác nhau. Để từ đó đưa ra những nhận xét và kết luận cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đảm bảo tính hệ thống: tức là các chỉ tiêu phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Định rõ chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận, chỉ tiêu thứ yếu và chỉ tiêu chủ yếu. Các chỉ tiêu và mục tiêu phải phù hợp với nhau, phù hợp với các chỉ tiêu được tính toán với các tổ chức quốc tế và các nước khác trên thế giới về nội dùng, phạm vi và phương pháp tính nhờ đó đảm bảo việc so sánh được.
- Đảm bảo tính khả thi: tức là phù hợp với khả năng, điều kiện về nhân tài vật lực.
- Đảm bảo tính hiệu quả: thông tin được coi là hàng hoá, quá trình tạo ra thông tin coi như sản xuất. Thông tin được coi như đầu vào của quá trình sản xuất. Vì vậy nội dung thông tin phải phù hợp với mục đích nghiên cứu, với nhu cầu thông tin cho quản lý vĩ mô và quản trị kinh doanh. Không dựa vào những thông tin thừa không chính xác.
- Đảm bảo tính thích nghi: thông tin thu được phải phù hợp với cuộc điều tra, phù hợp với nội dung điều tra. Không sử dụng các thông tin không có thực hoặc những thông tin không phù hợp trong quá trình điều tra tìm hiểu.
3. Hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành (hiện có) về tình hình hoạt động tài chính tại Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng HN.
Công ty cố phần lắp máy điện nước và xây dựng có tổng số vốn của nhà nước chiếm trên 50%, là doanh nghiệp của nhà nước, vì vậy hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành của doanh nghiệp nhằm đáp ứng cho yêu cầu của chế độ báo cáo doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng bộ kế hoạch - đầu tư ra quyết định số 62/2003/BKH.
Bên cạnh đó chế độ báo cáo quý, năm của doanh nghiệp theo Quyết định của Bộ tài chính cũng được doanh nghiệp triển khai thực hiện.
Cũng như bất kỳ một công ty nào khi hoạt động đều phải cố định và cân bằng vốn. Vì vậy muốn hoạt động có hiệu quả Công ty Cổ phần lắp máy điện nước đã xây dựng các chỉ tiêu đánh giá về tổng vốn kinh doanh, phù hợp với tình hình hạch toán của đơn vị, theo các chỉ tiêu sau:
3.1. Chỉ tiêu về quy mô vốn sản xuất
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Đó là tiền đề cần thiết cho việc hình thành và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ dùng vốn này để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng, các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí đã bỏ ra và có lãi. Như vậy, số tiền đã ứng ra ban đầu không những được bảo tồn mà nó còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện bằng tiền của giá trị vật tư tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp, tồn tại dưới 2 hình thức vật chất: cụ thể và không cụ thể. Từ đó có thể hiểu, vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Quy mô vốn sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ và được tính theo đơn vị giá trị. Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Trong đó vốn cố định là bộ phận cơ bản nhất. Để nghiên cứu chỉ tiêu này nguồn số liệu lấy từ báo cáo quyết toán tài chính của doanh nghiệp.
3.1.1. Quy mô vốn cố định.
Vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, là hình thái tiền tệ của giá trị các tài sản cố định trong doanh nghiệp được tính theo giá còn lại.
Quy mô vốn cố định là chỉ tiêu tuyệt đối, thời điểm và được tính theo đơn vị giá trị. Để biểu hiện quy mô vốn cố định trong một thời kỳ nhất định nhằm tính toán và phân tích một số chỉ tiêu kinh tế ta cần tính vốn cố định bình quân:
Bằng công thức: (1)
: Vốn cố định bình quân trong kỳ
Vcdk: Vốn cố định đầu kỳ
Vcck: Vốn cố định cuối kỳ
Trong đó: Vcdk (hay Vcck) = ∑i.Si
Với : Đơn giá tài sản cố định bình quân i (i = 1,n)
Si : Số lượng tài sản cố định hiện có đầu kỳ hay cuối kỳ.
* Phân biệt vốn cố định và tài sản cố định
+ Xét vốn cố định là xét về mặt giá trị, xét về mặt tài chính, còn xét về tài sản cố định là xét về mặt hiện vật, vật chất.
+ Giá trị tài sản cố định có thể tính theo nhiều loại giá khác nhau, vốn cố định chỉ xét theo giá còn lại, không tính phần đã khấu hao là bộ phận của vốn khấu hao.
* Phân biệt vốn cố định và vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản liên quan đến việc tái sản xuất tài sản cố định, còn vốn cố định là giá trị của tài sản cố định đã được hình thành, là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh.
3.1.2. Quy mô vốn lưu động.
Vốn lưu động trong doanh nghiệp là một bộ phận của vốn kinh doanh là hình thái tiền tệ của giá trị các tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động là chỉ tiêu tuyệt đối, thời điểm, được tính theo đơn vị tiền tệ, theo giá hiện hành, theo giá so sánh và giá cố định.
Vì vậy, để biểu hiện quy mô vốn lưu động trong một thời kỳ nhằm mục đích tính toán, phân tích các chỉ tiêu liên quan đến vốn lưu động thì phải tính vốn lưu động bình quân.
Bằng công thức: (2)
: Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Vldk: Vốn lưu động đầu kỳ
Vlck: Vốn lưu động cuối kỳ
hoặc
Trong đó:
: vốn lưu động bình quân kỳ nghiên cứu.
VL1, VL2... VLn: vốn lưu động có ở tháng 1,2… tháng n trong kỳ nghiên cứu.
3.2. Chỉ tiêu về cấu thành và kết cấu vốn
3.2.1. Chỉ tiêu về cấu thành vốn kinh doanh.
+ Cấu thành vốn sản xuất kinh doanh theo đặc điểm chu chuyển vốn bao gồm:
* Vốn cố định.
* Vốn lưu động.
+ Cấu thành vốn sản xuất kinh doanh theo nguồn vốn bao gồm:
* Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư.
* Nguồn vốn tự bổ sung.
* Nguồn vốn liên doanh liên kết.
* Nguồn vốn tín dụng
3.2.2. Chỉ tiêu về cấu thành vốn cố định.
+ Cơ cấu vốn cố định theo nguồn gốc:
* Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư
* Nguồn vốn tự bổ sung.
* Nguồn vốn liên doanh liên kết.
* Nguồn vốn tín dụng.
+ Cơ cấu vốn cố định theo loại tài sản cố định
+ Cơ cấu vốn cố định theo các đơn vị thành viên
3.2.3. Chỉ tiêu về cấu thành vốn