Đề tài Phân tích tình hình tài chính qua báo cáo tài chính ở Công ty xây dựng số 1 Hà Nội

Hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất kỳ doanh nghiệp nào đều gắn liền với hoạt động tài chính và hoạt động tài chính không thể tách khỏi quan hệ trao đổi tồn tại giữa các đơn vị kinh tế. Hoạt động tài chính có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, từ khâu tạo vốn trong doanh nghiệp đến khâu phân phối tiền lãi thu được từ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.

doc49 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1611 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính qua báo cáo tài chính ở Công ty xây dựng số 1 Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu H oạt động sản xuất kinh doanh ở bất kỳ doanh nghiệp nào đều gắn liền với hoạt động tài chính và hoạt động tài chính không thể tách khỏi quan hệ trao đổi tồn tại giữa các đơn vị kinh tế. Hoạt động tài chính có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, từ khâu tạo vốn trong doanh nghiệp đến khâu phân phối tiền lãi thu được từ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật. Trong kinh doanh nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng.v.v. Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp ở các góc độ khác nhau. Song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa.v.v.. Vì vậy, việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ đúng đắn nguyên nhân mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính, từ đó có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính. Trong thời gian thực tập tại Công ty xây dựng số 1 Hà nội, được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn Phạm Thị Gái và các cô, các bác, anh, các chị phòng kế toán của Công ty. Tôi mạnh dạn nghiên cứu và viết luận văn tốt nghịêp về đề tài "Phân tích tình hình tài chính qua báo cáo tài chính ở Công ty xây dựng số 1 Hà nội" nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty. Kết cấu luận văn: ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 phần: Phần I: Vấn đề lý luận chung về phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp qua báo cáo tài chính Phần II: Phân tích về thực trạng tình hình tài chính ở Công ty xây dựng số 1 Hà nội. Phần III: Phương hướng và giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng số 1 Hà nội. Phần I Vấn đề lý luận chung về phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp qua báo cáo tài chính I - Tổng quan về tài chính doanh nghiệp. 1 - Khái niệm tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và hoạt động của nền kinh tế hàng hoá, tính chất và mức độ phát triển của tài chính doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá và quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Nền kinh tế quản lý tập trung đã sản sinh ra cơ chế quản lý tài chính tập trung, nền kinh tế thị trường ra đời làm xuất hiện hàng loạt quan hệ tài chính mới, do đó tính chất và phạm vi hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng có những thay đổi đáng kể. Căn cứ vào hoạt động của một doanh nghiệp trong một môi trường kinh tế xã hội có thể thấy quan hệ tài chính của doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng: * Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Quan hệ này phát sinh trong quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ, phân phối tổng sản phẩm quốc dân giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước quan hệ này có tính chất hai chiều: Nhà nước có thể cấp vốn để doanh nghiệp hoạt động, ngược lại doanh nghiệp có trách nhiệm sử dụng vốn có hiệu quả và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với ngân sách. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì quan hệ này thể hiện qua việc nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp về mặt kỹ thuật, đào tạo con người và ngược lại doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ của mình với nhà nước theo quy định của pháp luật . * Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính Doanh nghiệp thực hiện qúa trình trao đổi mua bán các sản phẩm tài chính nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn của mình. - Với thị trường tiền tệ. Thông qua hệ thống ngân hàng các doanh nghiệp có thể có các nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn để kinh doanh hoặc tạm gửi số tiền nhàn rỗi vào hệ thống ngân hàng nhằm tạo vốn ngân hàng tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác . - Với thị trường vốn: Doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn dài hạn bằng cách phát hành các chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác, doanh nghiệp có thể kinh doanh các mặt hàng này trên thị trường chứng khoán. * Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và thị trường khác Với tư cách là một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp quan hệ với thị trường cung cấp đầu vào và thị trường phân phối tiêu thụ đầu ra đó là thị trường hàng hoá, dịch vụ, sức lao động v.v. Thông qua các thị trường, doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ cung ứng, trên cơ sở đó doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường. * Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp. Biểu hiện của quan hệ này là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Các mối quan hệ này biểu hiện thông qua chính sách tài chính doanh nghiệp như: chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư tài chính và cơ cấu đầu tư tài chính, chính sách về cơ cấu vốn v.v... Qua bốn nhóm quan hệ kinh tế trên cho ta thấy : + Sự vận động của các nguồn tài chính đều nảy sinh trong quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Sự vận động của các nguồn tài chính doanh nghiệp không phải diễn ra một cách hỗn loạn, nó hoà nhập vào chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế thị trường. Đó là sự vận động, chuyển hoá từ các nguồn tài chính thành các quỹ bằng các quan hệ phân phối của cải xã hội, gắn liền với sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và yêu cầu chung của xã hội. 2 - Vị trí vai trò của tài chính doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay có thể nói tài chính doanh nghiệp giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính nói chung và trong quản lý kinh tế ở mỗi doanh nghiệp nói riêng.Với tính chất của nó, tài chính doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc tạo vốn, sử dụng vốn có hiệu quả để thực hiện tái sản xuất mở rộng theo yêu cầu của thị trường và định hướng quản lý vĩ mô của nhà nước, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước và góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế -xã hội . - Xét trên phạm vị một đơn vị sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp ảnh hưởng đến các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, nó được coi là một trong những công cụ quan trọng để quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó có sự tác động tích cực hay tiêu cực đến quá trình sản xuất. - Xét trên góc độ của hệ thống tài chính trong nền kinh tế quốc dân, tài chính doanh nghiệp được coi là một bộ phận cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Thông qua hoạt động tài chính doanh nghiệp, Nhà nước có khả năng thực hiện các chức năng quản lý vĩ mô để điều tiết nền kinh tế thị trường bằng hệ thống luật định và các sắc thuế nhằm thực hiện phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước theo từng thời kỳ khác nhau. Đồng thời Nhà nước có khả năng quản lý nhằm mở rộng nguồn thu cho ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu nhiều mặt của ngân sách Nhà nước. Trong điều kiện môi trường kinh doanh đã từng bước được cải thiện như hiện nay, hoạt động tài chính doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện để phát huy vai trò của nó trên các mặt cơ bản sau: - Hoạt động tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc chủ động tạo lập vốn, đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Hoạt động tài chính doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ để kích thích thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh. - Hoạt động tài chính có vai trò trong việc tổ chức, sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả, đảm bảo khả năng sinh lời và bảo toàn vốn. - Tài chính doanh nghiệp còn là một công cụ quan trọng để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3 - Chức năng của tài chính doanh nghiệp. a- Chức năng phân phối Chức năng phân phối là thuộc tính khách quan vốn có của tài chính doanh nghiệp, là sự phân chia sản phẩm xác lập các quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận khác nhau của nền tái sản xuất, phân phối xác định tỷ lệ sản phẩm dùng cho tiêu dùng và cho tiết kiệm. Nhờ có chức năng phân phối mà doanh nghiệp có khả năng khai thác thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng nhờ có chức năng này mà vốn kinh doanh được đầu tư, sử dụng vào mục tiêu kinh doanh để tạo ra thu nhập và tích luỹ của doanh nghiệp hay nói cách khác nhờ chức năng phân phối mà quỹ tiền tệ được tạo lập và sử dụng, đồng thời vốn kinh doanh được tuần hoàn và chu chuyển. b- Chức năng Giám đốc Cũng như chức năng phân phối chức năng Giám đốc cũng là thuộc tính khách quan vốn có của tài chính doanh nghiệp, là công cụ kinh tế của phạm trù tài chính. Giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát của các hoạt động tài chính của doanh nghiệp biểu hiện tập trung nhất của chức năng Giám đốc là giám đốc quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Thông qua chức năng Giám đốc của tài chính có thể đảm bảo cho các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích đã định từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.Chức năng Giám đốc đó chính là khả năng giám sát, dự báo hiệu qủa của quá trình phân phối, doanh nghiệp có thể thấy được những khuyết tật trong kinh doanh để điều chỉnh nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh đã hoạch định. - Chức năng phân phối và chức năng Giám đốc có quan hệ hữu cơ với nhau. Chức năng phân phối là cơ sở để thực hiện chức năng Giám đốc, ở đâu chức năng giám đốc của hoạt động này được làm tốt sẽ là “bàn đạp” cho quá trình phân phối được tốt hơn. Để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả kinh tế cao, cạnh tranh được trên thị trường kinh tế, doanh nghiệp phải nghiên cứu đánh giá hoạt động tài chính thông qua những chỉ tiêu nhất định phù hợp với cơ chế quản lý tài chính hiện hành. II - Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp 1 - Mục đích, ý nghĩa của việc phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới góc độ khác nhau, song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra các dòng tiền tệ, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mục tiêu phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là: - Phân tích tình hình tài chính nhằm cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực các thông tin cho các nhà đầu tư, các tín chủ và những người sử dụng thông tin tài chính khác để giúp họ đưa ra quyết định đúng đắn khi quyết định đầu tư, cho vay và về các nội dung tương tự. - Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động vốn, các tỷ suất về đầu tư, tỷ suất tự tài trợ, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng sinh lời và hiệu quả sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp thấy rõ những mặt mạnh mặt tồn tại, nguyên nhân tồn tại và đề ra giải pháp hữu hiệu khắc phục hoặc phát huy những thành tích đã đạt được. - Phân tích tài chính nhằm cung cấp các thông tin về tình hình công nợ, khả năng thu hồi các khoản phải thu, khả năng thanh toán các khoản phải trả ... cũng như những ảnh hưởng của những nhân tố làm thay đổi điều kiện sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển, giúp các cơ quan quản lý vĩ mô nắm chắc tình hình và có kế hoạnh hướng dẫn, kiểm tra doanh nghiệp được hiệu quả. 2- Phương pháp và nguồn tài liệu sử dụng khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp Để thực hiện được các mục tiêu và vị trí vai trò của phân tích hoạt động tài chính phải xác định rõ phương pháp phân tích và nguồn số liệu, tài liệu sử dụng khi phân tích. Nguồn số liệu, tài liệu chủ yếu là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Bảng thuyết minh báo cáo tài chính. 2.1- Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp a- Bảng cân đối kế toán- (MS B01 - DN). Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành. Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng nhất để đánh giá ,nghiên cứu một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. b- Bảng báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh (MS B02 - DN) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán của doanh nghiệp chi tiết theo từng loại hoạt động kinh doanh và tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế, các khoản phải nộp khác . Căn cứ vào số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, người sử dụng thông tin có thể nhận xét và đánh giá khái quát tình hình và kết quả kinh doanh cuả doanh nghiệp cũng như tình hình thanh toán các khoản với nhà nước.Thông qua việc phân tích số liệu trên báo cáo này, ta có thể biết được xu hướng phát triển và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp kỳ này so với kỳ trước. c- Báo Cáo Lưu Chuyển Tiền Tệ ( MS B03 - DN). Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng có thể đánh giá được khả năng tạo ra tiền sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp khả năng thanh toán của doanh nghiệp và dự đoán được luồng tiền trong kỳ tiếp theo của doanh nghiệp. d- Thuyết Minh Báo Cáo Tài Chính (MS B09 - DN) Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập nhằm cung cấp các thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa trình bày một cách rõ ràng và cụ thể được. 2.2 - Phương pháp phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua hệ thống báo cáo tài chính kế toán cần phải sử dụng một số phương pháp chủ yếu, phương pháp so sánh được sử dụng nhiều trong quá trình phân tích. Phương pháp so sánh được dùng để xác định xu hướng phát triển và mức độ biến động của các chỉ tiêu kinh tế. Để tiến hành so sánh được cần phải giải quyết những vấn đề sau : - Chọn tiêu chuẩn so sánh. - Điều kiện có thể so sánh được giữa các chỉ tiêu kinh tế. - Hình thức so sánh. 3 - Tổ chức công tác phân tích a - Khái quát chung về tổ chức phân tích : Tổ chức phân tích là vận dụng tổng hợp các phương pháp phân tích để đánh giá đúng kết quả, chỉ rõ những sai lầm và tìm biện pháp sửa chữa thiếu sót trong quản lý tài chính và sử dụng vốn. Đây là một yêu cầu rất cơ bản có ý nghĩa rất thực tiễn đối với người quản lý kinh doanh . b - Quy trình tổ chức công tác phân tích tài chính : Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích: Xác định về nội dung, phạm vi thời gian và cách tổ chức phân tích. Nội dung phân tích cần xác định rõ các vấn đề cần được phân tích: có thể toàn bộ các chỉ tiêu hoặc các chỉ tiêu chủ yếu. Đây là cơ sở để xây dựng đề cương cụ thể để tiến hành phân tích. Phạm vi phân tích có thể là toàn bộ Công ty hoặc một đơn vị phụ thuộc, kỳ phân tích có thể là một kỳ kinh doanh (6 tháng hoặc một năm) được chọn để phân tích tuỳ yêu cầu và thực tiễn quản lý mà xác định phạm vi phân tích thích hợp. Sưu tầm tài liệu làm căn cứ phân tích bao gồm: - Bảng cân đối kế toán (còn gọi là bảng tổng kết tài sản) - Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh - Một số tài liệu liên quan khác như: số dư tài khoản 131, 331... - Kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu, tính chính xác của các con số . Bước 2: - Tiến hành phân tích: Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu, số liệu và phương pháp phân tích, cần xác định hệ thống chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích phù hợp. Khi phân tích tài chính ta sử dụng 2 phương pháp chủ yếu: - Phương pháp duy vật biện chứng - Phương pháp so sánh Bước 3: Lập báo cáo phân tích Báo cáo phân tích là bản tổng hợp gồm hai phần: Đánh giá cơ bản cùng những tài liệu chọn lọc để minh hoạ rút ra từ quá trình phân tích. Đánh giá cùng minh hoạ cần nêu rõ cả thực trạng và tiềm năng cần khai thác. Từ đó nêu rõ được phương hướng và biện pháp phấn đấu trong kỳ tới . III - Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty ảnh hưởng đến công tác phân tích: 1.Sự hình thành và phát triển của Công ty xây dựng số 1 Hà nội. Công ty xây dựng số 1 Hà nội thuộc sở xây dựng Hà nội (Tên giao dịch quốc tế là HCCI: Ha noi contruction company No:1)là một doanh nghiệp Nhà nước có nhiệm vụ thi công các khu nhà ở, các công trình dân dụng, xây dựng hệ thống cấp, thoát nước ... Trụ sở chính: số 2 Tôn Thất Tùng - Đống Đa - Hà nội . Công ty được thành lập tháng 2 năm 1972 trên cơ sở 2 Công ty lắp ghép nhà ở số 1 và số 2 theo quyết định số 626 QD/UB , giấy phép kinh doanh số 65 SXD, với nhiệm vụ là xây dựng nhà ở 2 tầng bằng phương pháp lắp ghép tấm lớn (điển hình là khu nhà lắp ghép Trương Định. Yên Lãng ). Từ năm 1973 - 1976 Công ty đã xây dựng nhà ở từ 4 đến 5 tầng (Khu Thành Công , Bách Khoa ), xây dựng nhà trẻ, trường học chợ Đồng Xuân. Từ năm 1990 chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty đã chuyển và thêm những chức năng mới nhằm đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh. Công ty đã không ngừng nâng cao năng lực của mình về con người và trang thiết bị để sẵn sàng thực hiện các công trình, những dự án đòi hỏi chất lượng cao và kết cấu xây dựng phức tạp. Nhờ có đội ngũ lao động tốt, thiết bị xe máy hiện đại, và hệ thống quản lý phù hợp mà sản lượng của Công ty ngày một tăng trưởng . Mức độ tăng trưởng hàng năm là : Năm 1993 2994 1995 1996 1997 Sản lượng(tỷ đồng) 15,904 26,267 35,1 41,628 45,567 Nộp ngân sách (tỷ đồng) 2,035 2,691 3,1 3,457 3,912 Hiện nay Công ty đang liên doanh liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để phát triển sản xuất, lập, quản lý và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản để phát triển các khu đô thị, khu phố mới và các công trình đô thị đặc biệt tại thủ đô Hà nội . 2. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty xây dựng số 1 Hà nội: Trong những năm đầu Công ty tổ chức sản xuất theo 3 cấp là Công ty, công trường, đội. Từ năm 1988 đến nay Công ty tổ chức sản xuất theo 2 cấp là Công ty, đội xây dựng và đã hình thành được 14 đội trực thuộc Công ty. Trong đó có 11 đội xây lắp và 3 đơn vị phục vụ xây lắp là đội thi công cơ giới, xưởng mộc, xưởng đúc bê tông . Về đặc điểm tổ chức quản lý thì Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân được tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất theo mô hình Công ty và các xí nghiệp đơn vị trực thuộc Công ty. Các xí nghiệp đơn vị trực thuộc Công ty không có tư cách pháp nhân. a. Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty xây dựng số 1 Hà nội Xây dựng nhà ở theo quy hoạch, kế hoạch giao thầu trực tiếp của ngành và của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà nội . - Nhận thầu xây dựng, cải tạo sửa chữa (kể cả trang trí nội thất), lắp đặt hệ thống cấp, thoát nước, điện hạ thế trong và ngoài nhà, đối với các công trình công nghiệp, dân dụng và nhà ở đến quy mô do cấp tỉnh và Thành phố trực thuộc HĐBT, các bộ và cơ quan ngang Bộ xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật và thiết kế . - Đào, đắp nền và xây dựng các công trình giao thông thuỷ lợi ít phức tạp. - Làm các dịch vụ về xây dựng từ A đến Z, dịch vụ mua bán nhà trong Thành phố. - Liên doanh liên kết với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Có tư cách pháp nhân để nhận thầu các công trình xây dựng, thực hiện các dự án đầu tư với mọi thành phần kinh tế theo quy hoạch được duyệt và trong khuôn khổ luật pháp quy định. + Công ty xây dựng số 1 Hà nội hoạt động theo nguyên tắc: Thực hiện hạch toán kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng nhằm bảo toàn và phát triển vốn được giao đồng thời giải quyết thoả đáng, hài hoà lợi ích
Tài liệu liên quan