Phân tích tài chính là quá trình nhận thức và đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện tại cũng như dự đoán tình hình tài chính trong tương lai, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định quản lý chính xác và đánh giá được doanh nghiệp, đồng thời giúp các đối tượng quan tâm đưa ra các quyết định hợp lý, phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm.
64 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính và giải pháp nhằm nâng cao khả năng tài chính tại trung tâm du lịch thanh niên Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Phân tích tài chính là quá trình nhận thức và đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện tại cũng như dự đoán tình hình tài chính trong tương lai, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định quản lý chính xác và đánh giá được doanh nghiệp, đồng thời giúp các đối tượng quan tâm đưa ra các quyết định hợp lý, phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội gắn liền với tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu của xã hội.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ và biện chứng với hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Do vậy, việc nhận thức được bản chất, tính chất và xu hướng phát triển của tài chính doanh nghiệp là một đòi hỏi thường xuyên và liên tục
Chính vì thế ,phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết.Nó giúp cho doanh nghiệp nhìn nhận một cách đúng đắn,khách quan nhất về thực trạng tài chính của mình để từ đó có những hướng giải quyết cụ thể phù hợp với doanh nghiệp trong từng giai đoạn.
Do vậy sau quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Thương Mại,kết hợp với thời gian thực tập tại trung tâm du lịch thanh liên việt nam cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô-Th.S. Lương Thị Trâm em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “phân tích tình hình tài chính và giải pháp nhằm nâng cao khả năng tài chính tại trung tâm du lịch thanh niên việt nam “làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp cuối khoá của mình.
Chuyên đề gồm có 3phần:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Chương II: Phân tích tình hình tài chính của trung tâm du lịch thanh liên Việt Nam.
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại trung tâm du lịch thanh niên việt nam
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của
phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
I. bản chất và nội dung của tài chính doanh nghiệp
1. Bản chất của tài chính doanh nghiệp
Mỗi một mối quan hệ kinh tế xã hội cụ thể đều được thông qua một hình thức trên cơ sở của một hệ thống mối quan hệ cụ thể nào đó .tài chính doanh nghiệp là một hệ thống những mỗi quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn lực tài chính của doanh ngiệp thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định ,nhằm thực hiện các mục tiêu dã được định trước của doanh nghiệp,mà ở đó mục tiêu chủ yếu là tối đa hoá lợi nhuận ,giảm chi phí kinh doanh
Bất kì tồn tại dưới hình thức nào doanh nghiệp được thành lập cũng nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện một ,một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình từ đầu tư đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ,đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định , đó là tiền đề cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp .trong thực tế vốn là hình thứcbiểu hiện bên ngoài của tài chính doanh nghiệp .Vốn tiền tệ trong doanh nghiệp luônđược vận động và luân chuyển không ngừng qua các giai đoạn từ việc dự trữ để sản xuất đến khi hình thành sản phẩm và đưa đến tay người tiêu dùng.Quá trình vận động này là quá trình chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác,đây là quá trình hình thái biểu hiện của vốn trong sản xuất kinh doanh theo từng chu kỳ.Có thể hiểu rằng tài chính doanh nghiệp là tiền tệ hay các quỹ tiền tệ tồn tại trong doanh nghiệp ,nhưng thực chất tiền tệ hay các quỹ tiền tệ chỉ là hình thức .Đó là các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước ,doanh nghiệp vối cac doanh nghiệp ,các tổ chức ,cá nhân,Cũng thông qua các mối quan hệ king tế này mà quá trìnhphối hơp lại được thực hiện và là tiền đề cho tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp được thực hiện.
Từ đó cho thấy bản chất tài chính của doanh nghiệp là hệ thống những mối quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị phát sinh trong qúa trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp,để phục vụ cho mục đích của sản xuất kình doanh và giải quyết các nhu cầu của xã hội .Hay nói cách khác :Tàichính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp vôi các việc tổ chức,huydộng ,phân phối ,sử dụng và quản lý vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2. Nội dung của tài chính doanh nghiệp.
Gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các mối quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới hình thức giá trị; hay đó là các mối quan hệ tài chính trong doanh nghiệp. Các mối quan hệ này chính là nội dung của tài chính doanh nghiệp và được thể hiện dưới những hình thức sau:
2.1. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Ngân sách Nhà nước.
Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với Ngân sách Nhà nước là mối quan hệ về phân phối thu nhập do Nhà nước đièu tiết thông qua các chính sách về thuế, về các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước theo luật định và theo những chính sách hiện hành. Đây là các khoản phải nộp mang tính chất bắt buộc đối với các doanh nghiệp, đó cũng là điều kiện vật chất nhằm duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước. Giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải nộp Nhà nước như: thuế doanh thu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XK, thuế NK, thuế lợi tức, thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản phụ thu (nếu có), cùng với các khoản lệ phí khác.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước cấp phát vốn kinh doanh khi mới thành lập, doanh nghiệp này phải chịu sự kiểm soát của nhà nước với tư cách nhà nước là chủ sở hữu doanh nghiệp.
Tóm lại, thực chất đây là hình thức phân phối và phân phối lại của cải vật chất dưới hình thức giá trị giữa các doanh nghiệp với Nhà nước.
2.2. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khác trong nền kinh tế thị trường.
Là mối quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khách quan như quan hệ về mặt thanh toán tiền mua, bán tài sản, vật tư hàng hoá và dịch vụ. Đây là những quan hệ mua bán trao đổi các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp.
Là mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc vay vốn và trả nợ. Đây là nguồn cung cấp vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Do vậy, yêu cầu đặt ra trong tình hình sản xuất kinh doanh, để việc đầu tư tài chính có hiệu quả thì doanh nghiệp cần phải tính toán, lựa chọn nguồn vay và mức độ vay cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Để việc kinh doanh diễn ra thuận lợi và hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra, doanh nghiệp cần phải tính đến các biện pháp phòng ngừa, biện pháp hỗ trợ đó là mối quan hệ với các tổ chức các Công ty bảo hiểm trong việc phân tích tình hình và tham gia mua bảo hiểm để hạn chế tổn thất xuống mức thấp nhất có thể với mức mua bảo hiểm đã xác định.
Ngoài những mối quan hệ kể trên doanh nghiệp còn có mối quan hệ với thị trường sức lao động, thị trường tài chính, trong các mối quan hệ liên doanh liên kết với các Công ty, các tổ chức trong và ngoài nước hay với các tầng lớp nhân dân trong việc thu hút và huy động vốn dưới hình thức mua bán chứng khoán hay góp vốn liên doanh.
Tóm lại, các mối quan hệ trên giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác đều nhằm mục đích tìm kiếm vốn và bổ xung vốn cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình sao cho có hiệu quả nhất.
2.3. Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp.
Mối quan hệ này được thể hiện thông qua việc phân phối thu nhập, trên cơ sở tiền thu về từ bán hàng sau khi bù đắp cho chi phí sản xuất, kinh doanh còn lại sẽ được hình thành quỹ tích luỹ tài sản của doanh nghiệp. Đây cũng là mối quan hệ phân phối lợi nhuận cho các đơn vị thành viên, trả lương, trả thưởng cho các người lao động và hình thành nên các quỹ của doanh nghiệp từ một phần lợi nhuận thông qua tỉ lệ trích lập. Trong các doanh nghiệp thương mại ngoài quốc doanh còn hình thành nên các mối quan hệ thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp với công nhân, viên chức và thanh toán tiền lãi vay, trả lãi cổ tức... cho các cổ đông.
Tóm lại, từ các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp nêu trên chúng ta có thể thấy: Tài chính doanh nghiệp là một hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ hay vốn huy động được của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận trong khuôn khổ của pháp luật.
3. Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
Nói đến chức năng là nói đến khả năng khách quan phát huy tác dụng xã hội của nó hay là sự cụ thể hoá bản chất của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có những chức năng cơ bản sau:
3.1. Chức năng chu chuyển vốn tiền tệ.
Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn cần phải có một lượng vốn tiền tệ đủ lớn để hoạt động và có quyền sử dụng nguồn vốn đó một cách chủ động. Quá trình hoạt động cua doanh nghiệp luôn nảy sinh các nhu cầu về vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Do vậy chức năng này sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được nhu cầu vốn cần thiết cho sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ. Mặt khác, nó còn giúp cho các nhà quản lý hay các chủ đầu tư nắm được tình hình tài chính để tổ chức nguồn vốn nhằm đầu tư đúng hướng và kịp thời nhu cầu vốn khi cần thiết.
Với cơ chế "mở" hiện nay, nguồn tài chính hoạt động không chỉ trong giới hạn ở nguồn cấp phát của ngân sách, nguồn vốn tự có của doanh nghiệp hay nguồn vốn tín dụng ngân hàng mà còn có thể được hình thành từ thị trường vốn hay huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các khoản đầu tư nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính song song với thị trườn hàng hoá, tạo ra cơ chế "bơm - hút" vốn một cách hợp lý và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong các doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp phát triển.
Điều đó cho thấy chức năng chu chuyển vốn tiền tệ là một chức năng quan trọng của tài chính doanh nghiệp vì nó tạo ra động lực thúc đẩy, quyết định sự hoạt động của doanh nghiệp. Nó liên quan đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay nói cách khác nó tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
3.2. Chức năng phân phối.
Phân phối là một chức năng quan trọng của tài chính doanh nghiệp, dựa trên cơ sở sản xuất kinh doanh, khi chu kỳ kinh doanh kết thúc, sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ trên thị trường, doanh nghiệp có thu nhập thu về từ bán hàng hoặc dịch vụ. Nói cách khác, chức năng phân phối là cái vốn có nằm sẵn trong phạm trù tài chính và biểu hiện bản chất của tài chính trong đời sống kinh tế xã hội khi phân phối của cải vật chất dưới hình thức giá trị. Cũng từ chức năng phân phối mà các nguồn tài lực là đại diện cho của cải của xã hội được đưa vào những mục đích sử dụng khác nhau đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội. Chức năng phân phối của doanh nghiệp chủ yếu là phân phối thu nhập bởi vì việc phân phối có tác động tới toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường có thể tiếp tục tái sản xuất mở rộng. Hình thức phân phối thể hiện theo quy trình sau khi thu tiền từ hoạt động bán hàng hay dịch vụ, doanh nghiệp phải phân phối theo cơ chế:
- Một phần dùng để bù đắp vốn đã bỏ ra mua hàng và cũng để nhằm mục đích bảo toàn vốn lưu động.
- Bù đắp một phần chi phí thuộc các yếu tố vật chất đã sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh như chi phí bù đắp hao mòn tài sản cố định, chi phí vật liệu, nhiên liệu, chi phí lao động trong đó bao gồm cả chi phí tiền lương, chi phí vận tải, chi phí bốc dỡ hàng hoá,... mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ kinh doanh.
- Thanh toán các khoản thuế và các khoản phải nộp nhà nước khác như: thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK, và các khoản lệ phí và phụ thu khác...
- Số còn lại sau khi bù đắp được các khoản chi phí gọi là lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Lợi nhuận này sau khi đã trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản chi phí không hợp lý như nộp tiền phạt, hao hụt vượt quá mức quy định, tiền lãi vay quá hạn... phần còn lại sẽ được doanh nghiệp phân phối vào các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi...
3.3. Chức năng giám đốc tài chính.
Đây là chức năng mang tính chất khách quan được sử dụng trong kiểm tra, kiểm soát tài chính doanh nghiệp, chức năng giám đốc tài chính phản ánh tính chất khách quan của hoạt động tài chính và thông qua đó có thể phản ánh được trình độ sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh. Quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hướng vào việc thực hiện các yêu cầu của các quy luật kinh tế của nền kinh tế trị trường. Trong đó đặc điểm cơ bản nhất của giám đốc tài chính là giám đốc bằng tiền các hoạt động kinh doanh một cách thường xuyên, liên tục và có hiệu quả nhất.
Giám đốc tài chính cho thấy được khả năng sử dụng vốn có hiệu quả hay không và việc phân phối chúng như thế nào đối với mỗi đồng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Đồng thời thông qua một số chỉ tiêu về sử dụng vốn, một số chỉ tiêu về chi phí hay lợi nhuận... mà có thể phát hiện ra các hiện tượng sử dụng vốn bất hợp lý, sử dụng chi phí kinh doanh kém hiệu quả để tư vấn cho lãnh đạo hoặc chủ doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn về tài chính đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Và cũng có thể nắm một cách chính xác, toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp để lập kế hoạch tài chính doanh nghiệp và bám sát mục tiêu kinh doanh. Cũng thông qua chức năng này mà quá trình kinh doanh được chủ động, không ngừng được mở rộng và phát triển theo định hướng, đảm bảo việc sử dụng vốn có hiệu quả, thực hiện yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế, đảm bảo đời sống của người lao động trong doanh nghiệp, tránh tham ô lãng phí và những tổn thất không đáng có do hoạt động tài chính gây nên.
4. Vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với quá trình HĐKD
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh ngày nay, tài chính giữ những vai trò chủ yếu sau:
Đảm bảo huy động đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường xuyên nảy sinh các nhu cầu về vốn ngắn hạn và dài hạn cho các hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển.
Vai trò tài chính doanh nghiệp trước hết được thể hiện ở việc xác định đúng đắn các nhu cầu về vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và sau đó lựa chọn hình thức huy động vốn phù hợp (huy động từ bên trong hay bên ngoài doanh nghiệp). Chính vì thế vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho quá trình huy động nhịp nhàng, liên tục với chi phí thấp nhất. Bên cạnh đó, tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc tổ chức, sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích một số chỉ tiêu kinh tế như khả năng sinh lời, mức độ rủi ro,... để lựa chọn ra một dự án đầu tư tối ưu. Huy động kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất lớn để doanh nghiệp có thể nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh. Mặt khác, huy động tối đa nguồn vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh để có thể giảm bớt và tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được khoản chi phí trả lãi tiền vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ doanh nghiệp cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng phạt vật chất nghiêm minh và hợp lý sẽ là động lực thúc đẩy cán bộ công nhân viên quan tâm tới công việc, gắn bó với doanh nghiệp từ đó nâng cao sản xuất lao động góp phần cải tiến và hợp lý hóa trong sản xuất kinh doanh nhằm sử dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất.
Giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là một vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc thực hiện hàng loạt chỉ tiêu kế hoạch tài chính đã được xây dựng. Thường xuyên giám sát, kiểm tra và đánh giá một cách khái quát các mặt hoạt động của doanh nghiệp đồng thời phát hiện ra những tồn tại vướng mắc trong kinh doanh để từ đó có những biện pháp khắc phục góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và điều chỉnh các hoạt động sao cho phù hợp với thực tế kinh doanh.
II. Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1. Khái niệm và mục đích phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm.
Mọi sự vật và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan, muốn nắm bắt, nhận thức và cải tạo được chúng để đưa vào sử dụng phục vụ cho lợi ích của con người thì cần phải hiểu biết về bản chất sự vật và hiện tượng cũng như quy luật vận động của nó. Vì vậy, để hiểu biết được chúng ta cần phải sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trong đó có phương pháp phân tích.
Vậy phân tích có thể hiểu là sự bóc tách, chia nhỏ sự vật hiện tượng trong mối quan hệ trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật, hiện tượng; từ đó cho ta nhận thức được về hình dáng, kích thước, tính chất của chúng trong đối tượng nghiên cứu và thấy được mối liên hệ, tác động qua lại giữa chúng. Đồng thời qua phân tích quy luật của sự vật hiện tượng. Đó là phân tích trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội thì các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. C.Mác đã chỉ ra rằng:
"Khi phân tích các hình thái kinh tế xã hội thì không thể sử dụng hoặc kính hiển vi hoặc những phản ứng hoá học. Lực lượng trừu tượng phải thay thế cái này hoặc cái kia".
Phân tích kinh tế là một trong những khái niệm chung, tuỳ theo phạm vi của đối tượng nghiên cứu mà ta chia ra thành phân tích kinh tế vĩ mô hay phân tích kinh tế vi mô.
- Phân tích kinh tế vĩ mô có phạm vi nghiên cứu rộng trong nền kinh tế quốc dân hay một vùng lãnh thổ.
- Phân tích kinh tế vi mô hay còn gọi là phân tích hoạt động kinh tế có phạm vi là các hiện tượng và quá trình kinh tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp hay một tổ chức kinh tế cụ thể.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là các mối quan hệ tiền tệ gắn liền với việc hình thành nên vốn, phân phối, quản lý và sử dụng vốn trong quá trình kinh doanh và được biểu hiện bằng việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua phân tích tình hình tài chính mà người sử dụng thông tin có thể đánh giá được tiềm năng, hiệu quả kinh doanh hay những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai hoặc triển vọng phát triển có thể đạt được của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, phân tích tài chính doanh nghiệp đã và ngày càng trở thành một công cụ quan trọng trong hệ thống các công cụ quản lý kinh tế xã hội. Hơn thế nó đã phát triển thành một môn khoa học kinh tế độc lập có đối tượng nghiên cứu riêng.
Đối tượng nghiên cứu của phân tích tài chính doanh nghiệp là việc đi phân tích những kết quả kinh doanh gắn liền với việc huy động, sử dụng và quản lý vốn, được thể hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế và các nhân tố tác động tới nó.
Nói tóm lại, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là tổng thể các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu các mối quan hệ nói trên nhằm nhận thức và đánh giá một cách đúng đắn trong quản lý kinh tế nói chung và trong đó có q