Chi phí sản xuất kinh doanh là tất cả các chi phí tồn tại và phát sinh gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh từ khâu hình thành và tồn tại doanh nghiệp, đến khâu tạo ra sản phẩm và tiêu thụ xong chúng [2, 44].
Chi phí của doanh nghiệp là tất cả những chi phí phát sinh gắn liền với doanh nghiệp trong quá trình hình thành, tồn tại và hoạt động từ khâu mua nguyên vật liệu, tạo ra sản phẩm đến khi tiêu thụ nó [3, 157].
63 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và thiết kế một số giải pháp hạ giá thành tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
về chi phí sản xuất kinh doanh
và giá thành sản phẩm
1.1. Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất kinh doanh:
1.1.1. Một số khái niệm về chi phí sản xuất kinh doanh:
Chi phí sản xuất kinh doanh là tất cả các chi phí tồn tại và phát sinh gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh từ khâu hình thành và tồn tại doanh nghiệp, đến khâu tạo ra sản phẩm và tiêu thụ xong chúng [2, 44].
Chi phí của doanh nghiệp là tất cả những chi phí phát sinh gắn liền với doanh nghiệp trong quá trình hình thành, tồn tại và hoạt động từ khâu mua nguyên vật liệu, tạo ra sản phẩm đến khi tiêu thụ nó [3, 157].
Chi phí sản xuất là toàn bộ những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cho sản xuất trong một kỳ kinh doanh nhất định (thường là tháng, quý, năm) và được biểu hiện dưới hình thái giá trị [5, 201].
Chi phí về lao động sống, như: tiền lương của cán bộ công nhân viên, chi phí bảo hiểm xã hội và các khoản tiền khác thuộc lương.
Chi phí về lao động vật hóa, bao gồm: chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về nhiên liệu, năng lượng, chi phí về khấu hao TSCĐ, …
Như vậy, chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, có đặc điểm là luôn vận động mang tính đa đạng và phức tạp gắn liền với tính đa dạng, phức tạp của ngành nghề sản xuất, qui trình sản xuất.
Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của 3 yếu tố:
- Tư liệu lao động: máy móc, thiết bị, nhà xưởng.
- Đối tượng lao động: nguyên nhiên vật liệu.
- Sức lao động: lao động sống của con người.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình người lao động sử dụng các tư liệu lao động tác động làm biến đổi các đối tượng lao động tạo ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu xã hội.
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh:
Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp bao gồm nhiều loại và có thể được chia ra theo nhiều tiêu thức khác nhau phục vụ cho công tác quản lý, điều tra tính hiệu quả sử dụng chi phí cho từng bộ phận sản xuất và cho toàn doanh nghiệp. Xuất phát từ việc xem xét chi phí ở từng góc độ, mục đích và yêu cầu khác nhau của công tác quản lý mà ta chọn tiêu thức phân loại cho phù hợp.
1.1.2.1. Theo nội dung kinh tế ban đầu của chi phí:
Cách phân loại này dựa vào nội dung kinh tế ban đầu, không tính đến công dụng cụ thể của chi phí, địa điểm phát sinh của chi phí trong quá trình sản xuất.
Cách phân loại này cho nhà quản trị biết các nguồn lực mà doanh nghiệp đã sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ, làm cơ sở để lập dự toán chi phí cho kỳ kế hoạch.
Theo cách phân loại này, chi phí được phân chia thành 5 yếu tố:
* Yếu tố chi phí nguyên, nhiên vật liệu:
Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ, ... sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ (ngoại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp có thể tách yếu tố này thành 2 hoặc 3 yếu tố nhỏ cho phù hợp với yêu cầu quản lý ở doanh nghiệp:
- Nguyên vật liệu.
- Nhiên liệu.
- Động lực.
* Yếu tố chi phí nhân công:
Bao gồm tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương phải trả cho người lao động tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xác định căn cứ vào định mức lao động, đơn giá tiền lương, khối lượng công việc hoặc theo hệ số và mức lương cấp bậc, theo hợp đồng, theo hiệu quả kinh doanh [3, 162].
* Yếu tố chi phí khấu hao TSCĐ:
Chi phí khấu hao TSCĐ là khoản chi phí liên quan đến việc sử dụng các TSCĐ của doanh nghiệp trong kỳ xem xét. Khoản này được khấu trừ khỏi thu nhập của doanh nghiệp trước khi tính thuế thu nhập, nhưng là khoản chi phí “ảo”. Lý do là khoản này không phải là khoản thực chi của doanh nghiệp và được xem như một thành phần tạo ra tích lũy cho doanh nghiệp.
* Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài:
Bao gồm toàn bộ số tiền phải trả cho dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ như: chi phí sửa chữa TSCĐ thuê ngoài, chi phí điện nước, điện thoại, tiền bốc vác, vận chuyển hàng hoá sản phẩm, tiền trả hoa hồng đại lý, môi giới, uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu, tiền mua bảo hiểm tài sản, tiền thuê kiểm toán, tư vấn, quảng cáo và dịch vụ mua ngoài khác. Các khoản chi này được hạch toán theo thực tế phát sinh do Giám đốc duyệt chi và chịu trách nhiệm về quyết định của mình [3, 163].
* Yếu tố chi phí khác bằng tiền:
Là các khoản chi phí ngoài các chi phí đã quy định ở trên như thuế môn bài, thuế sử dụng đất hoặc tiền thuê đất, thuế tài nguyên, lệ phí cầu phà, chi phí tiếp tân, khánh tiết, quảng cáo, tiếp thị, chi phí giao dịch đối ngoại, chi phí hội nghị, chi phí tuyển dụng, tập quân sự, bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho cán bộ công nhân viên, chi phí bảo hộ lao động, các khoản thiệt hại được phép hạch toán vào chi phí, chi phí bảo hành sản phẩm, các khoản dự phòng, tiền nộp quỹ quản lý tổng công ty, tiền đóng hội phí, chi phí dự thầu, trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định của Luật Lao động và các khoản chi khác [3, 163].
Ưu điểm của việc phân loại chi phí theo yếu tố:
- Phân loại rõ ràng, đảm bảo tính thống nhất của doanh thu, chi phí giữa các doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế, thuận lợi cho việc quản lý của nhà nước.
- Thông qua các yếu tố có thể tách ra được bộ phận kết cấu về lao động sống và lao động quá khứ của sản phẩm. Nó thể hiện trình độ thủ công hay cơ giới có tính thực tiễn cao.
Nhược điểm:
- Không cho biết mục đích công nghệ của các khoản chi, không phân biệt cụ thể công dụng, địa điểm phát sinh chi phí. Không quy định chi phí sản xuất cho từng khu vực và không thấy rõ sự biến động đầu vào của vật tư, giá cả tăng giảm bao nhiêu. Không đủ thông tin để hạch toán giá thành cho từng sản phẩm.
1.1.2.2. Theo công dụng và địa điểm phát sinh của chi phí:
Theo cách phân loại này, những nguồn lực sử dụng vào cùng một mục đích thì được xếp cùng vào một loại gọi là khoản mục chi phí, không kể hình thái ban đầu của nguồn lực là gì. Hiện nay, nước ta quy định 5 khoản mục chi phí như sau:
* Khoản mục 1: Chi phí nguyên vật trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là toàn bộ các chi phí về nguyên nhiên vật liệu (vật liệu chính, vật liệu phụ, công cụ lao động nhỏ và nhiên liệu) được dùng trực tiếp cho quá trình công nghệ sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm những loại nguyên liệu, vật liệu chính tạo ra thực thể của sản phẩm: sắt thép, gỗ, vải,... được xác định thông qua phiếu xuất kho nguyên liệu. Chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp được tính thẳng vào chi phí sản xuất sản phẩm, ngoài ra trong quá trình sản xuất còn phát sinh những loại nguyên liệu có tác dụng phụ thuộc, nó kết hợp nguyên vật liệu chính để sản xuất ra sản phẩm hoặc làm tăng chất lượng của sản phẩm, hoặc tạo ra màu sắc, mùi vị hoặc rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm.
* Khoản mục 2: Chi phí nhân công trực tiếp.
Phản ánh chi phí lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm lao vụ dịch vụ trong các doanh nghiệp. Chi phí này thường bao gồm chi phí về tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền bảo hiểm xã hội,…[3, 158].
* Khoản mục 3: Chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung là tất cả những chi phí phát sinh tại nơi sản xuất hay phân xưởng mà không phải là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí sản xuất chung bao gồm chi phí nguyên liệu gián tiếp, khấu hao tài sản cố định, sửa chữa, bảo trì, quản lý tại phân xưởng,... Trên giác độ toàn doanh nghiệp cũng phát sinh những khoản chi phí tương tự gắn liền với quá trình quản lý và tiêu thụ, nhưng không được kể là một phần của chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung (CPSXC) có ba đặc điểm sau:
- Bao gồm nhiều khoản mục chi phí khác nhau nên chúng được nhiều bộ phận khác nhau quản lý, và rất khó kiểm soát.
- Có tính chất gián tiếp với từng đơn vị sản phẩm nên không thể tính thẳng vào sản phẩm hay dịch vụ cung cấp.
- Cơ cấu CPSXC bao gồm cả định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp, trong đó định phí thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
Như vậy, khoản mục CPSXC bao gồm các tiểu khoản mục sau [3, 159]:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng.
+ Chi phí vật liệu.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: giá trị khâu hao toàn bộ tài sản cố định mà bộ phận sản xuất đó được quản lý và sử dụng trong kỳ.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: giá trị dịch vụ mua ngoài được sử dụng trong kỳ ở bộ phận sản xuất.
+ Chi phí bằng tiền: các khoản chi phí hoạt động sản xuất ở bộ phận sản xuất trực tiếp dưới hình thức giá trị như tiếp khách, hội họp, văn phòng phẩm.
* Khoản mục 4: Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí này phản ánh các chi phí quản lý chung của doanh nghiệp gồm các chi phí quản lý kinh doanh, chi phí quản lý hành chính, chi phí chung khác liên quan đến các hoạt động của doanh nghiệp [3, 160].
Chi phí này bao gồm các tiểu khoản mục sau:
- Chi phí nhân viên quản lý: là lương và các khoản tính theo lương của các nhân viên thuộc bộ máy quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí vật liệu quản lý: bao gồm chi phí về vật liệu sử dụng chung cho công việc quản lý của doanh nghiệp.
- Chi phí về đồ dùng văn phòng.
- Chi phí về khấu hao tài sản cố định: trong đó bao gồm toàn bộ chi phí khấu hao tài sản cố định dùng chung như: văn phòng, thiết bị văn phòng, kho tàng, các công trình kiến trúc.
- Thuế, phí, lệ phí: theo quy định hiện nay, doanh nghiệp tính vào khoản mục này các loại thuế và phí sau: thuế môn bài, thuế tài nguyên, thuế như đất, lệ phí tòa án, lệ phí trước bạ, phí cầu đường và quản lý phí phải nộp cấp trên (nếu có).
- Dự phòng phải thu khó đòi và dự phòng giảm giá tồn kho.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí khác bằng tiền cho công tác quản lý doanh nghiệp.
* Khoản mục 5: Chi phí bán hàng.
Chi phí này phản ánh các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ bao gồm các chi phí đóng gói, vận chuyển, giới thiệu, bảo hành sản phẩm,…[3, 159].
Chi phí này gồm các tiểu khoản mục sau:
- Chi phí nhân viên.
- Chi phí vật liệu bao bì.
- Chi phí dụng cụ đồ dùng.
- Chi phí khấu hao TSCĐ.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí bằng tiền khác.
Trong 5 khoản mục trên:
- Ba khoản mục đầu tiên là chi phí trực tiếp cho quá trình sản xuất và sẽ bù đắp lại khi sản phẩm dịch vụ hoàn thành đem bán dưới dạng giá vốn hàng bán.
- Hai khoản mục sau liên quan đến quá trình quản lý và tiêu thụ sản phẩm. Theo quy định hiện nay không phải phân bổ trực tiếp cho các loại sản phẩm mà bù đắp bằng lợi nhuận gộp trong kỳ.
* Ưu điểm của việc tính giá thành theo khoản mục chi phí:
Cho biết mục đích của các khoản mục chi phí, thể hiện rõ hơn công dụng và địa điểm bỏ ra chi phí sản xuất cho từng khu vực.
Kết hợp được các yếu tố chi phí công đoạn và yếu tố chi phí tổng hợp mới tạo nên khoản mục.
Việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh thành các khoản mục cho phép phân tích đánh giá sử dụng nguồn lực ở các khâu khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó cho phép tính được giá thành đơn vị sản phẩm, cho phép phân tích cơ cấu chi phí, cơ cấu giá thành để từ đó đề xuất các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
* Nhược điểm:
Đôi khi không rõ ràng, có thể có sự nhầm lẫn giữa các khoản mục do phương pháp này tính toán phức tạp hơn. Không có tính thống nhất giữa các danh mục. Không thể hiện kết cấu giữa các yếu tố.
1.1.2.3. Theo mối quan hệ giữa chi phí và đối tượng chịu chi phí:
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia làm 3 loại:
* Chi phí sản xuất kinh doanh: bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, quản lý doanh nghiệp.
* Chi phí hoạt động tài chính: bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt động vay nợ, đầu tư tài chính, mua bán chứng khoán.
* Chi phí hoạt động khác: gồm các chi phí ngoài dự kiến như chi phí về thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, chi phí về nộp phạt.
1.1.2.4. Theo mối quan hệ giữa chi phí và lượng sản xuất:
Theo cách phân loại này chi phí được chia thành định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp:
* Định phí (chi phí cố định): là các khoản chi phí không thay đổi hoặc là có sự thay đổi nhỏ không đáng kể khi mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh thay đổi. Định phí bao gồm một số yếu tố như: chi phí khấu hao tài sản cố định sử dụng trong phân xưởng, lương nhân viên phân xưởng,...
* Biến phí (chi phí biến đổi): là các khoản chi phí thay đổi tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp, nhưng chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại không thay đổi khi sản lượng thay đổi. Biến phí thường gồm các khoản chi phí như: chi phí nguyên nhiên vật liệu trực tiếp, chi phí lao động trực tiếp, chi phí bao bì đóng gói,...
* Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả các yếu tố biến phí và định phí.
ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Chi phí hỗn hợp bao gồm cả các chi phí sản xuất chung như: chi phí điện thoại, điện năng, nước, tiền thuê máy móc thiết bị, tiền lương giám sát, nhân viên.
Việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh thành chi phí bất biến và chi phí khả biến có tác dụng trong việc xây dựng chiến lược sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của doanh nghiệp.
Cách phân loại dựa theo mối quan hệ giữa chi phí và lượng sản xuất cũng ý nghĩa trong việc tiết kiệm chi phí sản xuất và định ra biện pháp thích hợp nhằm hạ thấp chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm.
1.2. Giá thành sản phẩm:
1.2.1. Khái niệm giá thành:
Giá thành sản phẩm dịch vụ là toàn bộ những chi phí tính bằng tiền để sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định. Hay nói cách khác, giá thành sản phẩm dịch vụ là hao phí về lao động sống và lao động vật hóa cho một đơn vị khối lượng sản phẩm hoặc lao vụ nhất định biểu hiện bằng tiền.
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí bằng tiền để sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm nhất định [1, 346].
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật chất có liên quan đến khối lượng sản phẩm, công việc đã hoàn thành trong kỳ.
Có thể nói giá thành là một chỉ tiêu phản ánh toàn diện chất lượng hoạt động của doanh nghiệp bao gồm các mặt: trình độ công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản trị v.v…
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng, phản ánh và đo lường kết quả sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà các doanh nghiệp đã thực hiện.
Đồng thời giá thành còn giữ chức năng thông tin và kiểm tra về chi phí giúp cho người quản lý có cơ sở để đề ra quyết định đúng đắn kịp thời.
1.2.2. Phân loại giá thành:
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
1.2.2.1. Theo thời điểm xác định giá thành:
Căn cứ vào thời điểm xác định giá thành, giá thành sản phẩm được chia làm 2 loại: Giá thành kế hoạch, giá thành thực tế.
* Giá thành kế hoạch:
Giá thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính dựa trên chi phí sản xuất và sản lượng kế hoạch. Giá thành kế hoạch được lập trước kỳ sản xuất kinh doanh, là mục tiêu cần đạt của doanh nghiệp và là cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm [1, 351].
Giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở công nghệ sản xuất của doanh nghiệp cũng như các định mức kinh tế kỹ thuật và sản lượng dự kiến của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
Giá thành kế hoạch được vạch ra cho cả kỳ kế hoạch và chỉ tiêu này không đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch. Việc xây dựng giá thành kế hoạch có vai trò rất to lớn. Đây là cái gốc để doanh nghiệp so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện và các nguyên nhân tác động tới việc hoàn thành kế hoạch.
* Giá thành thực tế:
Giá thành thực tế là giá thành sản phẩm được tính dựa trên chi phí sản xuất thực tế phát sinh và sản lượng sản xuất trong kỳ sản xuất kinh doanh. Giá thành thực tế được tính khi kết thúc kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giá thành thực tế là cơ sở để kiểm tra, đánh giá tình hình tiết kiệm chi phí và xác định kết quả kinh doanh [1, 351].
Giá thành thực tế được tính trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất một khối lượng sản phẩm nhất định.
Giá thành thực tế là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế, tổ chức, kỹ thuật nhằm thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Theo nội dung cơ cấu giá thành:
* Giá thành sản xuất:
Giá thành sản xuất là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất; bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Giá thành sản xuất là căn cứ để xác định giá vốn hàng hoá và mức lãi gộp lại trong kỳ.
* Giá thành đầy đủ:
Giá thành đầy đủ là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (Bao gồm giá thành sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng).
Giá thành toàn bộ là cơ sở để tính toán lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Cách phân loại này giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh của từng loại mặt hàng, từng loại sản phẩm.
1.2.2.3. Theo số lượng đối tượng tính giá thành:
* Giá thành đơn vị sản phẩm:
Giá thành đơn vị sản phẩm là giá thành tính cho một loại sản phẩm và một đơn vị sản phẩm nhất định. Giá thành đơn vị dùng để so sánh với giá thành kế hoạch, với các kỳ sản xuất trước đó và với các đối thủ cạnh tranh để có biện pháp giảm giá thành [1, 351].
* Tổng giá thành sản phẩm:
Tổng giá thành sản phẩm là tập hợp toàn bộ chi phí để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ sản xuất kinh doanh. Tổng giá thành sản phẩm cho biết kết cấu các loại chi phí trong giá thành để có biện pháp giảm giá thành [1, 352].
1.2.3. Phân biệt chi phí và giá thành:
a. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt có những mặt khác nhau:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ đã phát sinh ra chúng, còn giá thành sản phẩm lại gắn liền với một khối lượng sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành.
Thứ hai: Chi phí phát sinh trong doanh nghiệp được phân thành các yếu tố chi phí, có cùng một nội dung kinh tế, chúng không nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí. Còn những chi phí nào phát sinh nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí đó thì chúng được tập hợp lại thành các khoản mục để tính toán giá thành sản phẩm, dịch vụ.
Thứ ba: Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí đã trả trước của kỳ nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước, nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế; nhưng không bao gồm chi phí phải trả kỳ này nhưng thực tế chưa phát sinh. Ngược lại giá thành sản phẩm lại chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ.
Thứ tư: Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm còn đang dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chí phí sản xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Tuy nhiên, giữa hai khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, vì nội dung cơ bản của chúng đều biểu hiện những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất kinh do