Nằm trên khuôn viên khá rộng rãi, với một cơ sở vật chất khá tốt, trường có gần 40 phòng học và một số phòng phục vụ cho các học sinh có nhu cầu bán trú. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy và phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, nhà trường có một phòng trưng bày các sản phẩm bằng thủ công, hội hoạ, văn, thơ, báo tường do chính các học sinh tự sáng tác trong các cuộc thi và các dịp thi đua.
84 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý giáo viên tại trường tiểu học Kim Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG
I. Giới thiệu chung về trường tiểu học Kim Đồng:
1. Thông tin chung
- Trường tiểu học Kim Đồng.
Năm thành lập: 1987
Hiệu trưởng: Võ thị thu Oanh
Nằm trên khuôn viên khá rộng rãi, với một cơ sở vật chất khá tốt, trường có gần 40 phòng học và một số phòng phục vụ cho các học sinh có nhu cầu bán trú. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy và phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, nhà trường có một phòng trưng bày các sản phẩm bằng thủ công, hội hoạ, văn, thơ, báo tường… do chính các học sinh tự sáng tác trong các cuộc thi và các dịp thi đua. Nhà trường còn có một phòng máy vi tính gồm hơn 20 máy nhằm giúp học sinh sớm tiếp cận với công nghệ thông tin Mặt thể chất của học sinh cũng được nhà trường chú trọng bằng việc đầu tư các dụng cụ thể thao như cầu lông, bóng bàn, cờ tướng cờ vua…
Kể từ lúc thành lập trường đến nay Hàng năm trường thực hiện công tác dảng dạy cho mọi đối tượng học sinh trong Năm học 2003-2004 tổng số học sinh trong trường là 1675 học sinh được chia làm 31 lớp cho 5 khối, khối có nhiều lớp nhất là khối lớp 1 có 7 lớp. Còn khối lớp 2 đến khối lớp 5 mỗi khối có 6 lớp. Tên lớp được đặt theo thứ tự chữ cái A, B, C… Trường có đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm và không ngừng học tập rèn luyện nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ chuyên môn và luôn hết sức mình trong công tác giảng dạy.
2. Tổ chức của nhà trường
Để đáp ứng đầy đủ cho việc dạy và học cho một lượng học sinh lớn, nhà trường có 52 giáo viên và 15 cán bộ công nhân viên công tác phục vụ cho việc dảng dạy. Lãnh đạo của trường là hiệu trưởng Võ Thị Thu Oanh cùng với hai hiệu phó. Một cô hiệu phó chuyên về công tác chuyên môn, chỉ đạo trong việc giảng dạy và nâng cao chất lượng dạy học, còn cô hiệu phó còn lại phụ trách chỉ đạo các mặt về cơ sở vật chất, các hoạt động thi đua, văn nghệ… của trường. Ngoài đội ngũ giáo viên phục vụ công tác giảng dạy, nhà trường còn có đội ngũ công nhân viên phục vụ sinh hoạt cho những học sinh ở bán trú, và một số cán bộ phục vụ trong công tác đoàn đội, chủ tịch công đoàn.
Giáo viên được chia thành các tổ khác nhau, mỗi tổ ứng với một khối lớp ví dụ, tổ 1 bao gồm các giáo viên chủ nhiệm khối 1, tổ 2 bao gồm các giáo viên chủ nhiệm của khối 2… cho đến khối lớp 5. Ngoài 5 tổ đó ra còn có thêm 3 tổ đó là tổ ngoại ngữ, tổ tin học, tổ văn thể mỹ.
đối với khối lớp một giáo viên chủ nhiệm được phân công giảng dạy những môn cơ bản như :Toán, tiếng việt, đạo đức ...
Còn những môn năng khiếu thì có các giáo viên thuộc tổ năng khiếu đảm nhiệm việc giảng dạy
3. Chức năng của trường
“Đổi mới giáo dục tiểu học đang đi vào rất nhiều lĩnh vực mà Đảng, Nhà nước và nhân dân cũng như ngành Giáo dục đào tạo ta đang mong đợi. Có được sự thành công hay không ở bước đầu của sự nghiệp đổi mới này phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ giáo viên và sự chỉ đạo của cán bộ quản lý nhà trường.”
Nhận thức được điều đó, cộng với tình yêu nghề nghiệp và sự tâm huyết vì thế hệ trẻ, nhà trường luôn hết sức trong việc truyền thụ kiến thức văn hoá cũng như hướng cho học sinh những phẩm chất đạo đức cao đẹp.
Cũng giống như bất kì một trường tiểu học nào trên toàn quốc, trường thực hiện dảng dạy cho các môn học sinh cơ bản như: toán, văn, tiếng việt, tập làm văn, đạo đức, địa lý, lịch sử… trong đó toán và tiếng việt là hai môn công cụ. Ngoài ra còn có một số môn năng khiếu như nhạc, hoạ, tin học, văn thể mỹ. Ngoài những tiết học chính ở trường, nhà trường thường xuyên tổ chức những đợt tham quan, ngoại khoá bằng việc đi thực tế của các môn như: lịch sử, hội hoạ, văn học, địa lý, văn nghệ…Nhằm nâng cao sự hiểu biết cũng như nhận thức của học sinh về mọi mặt.
4. Mục tiêu của nhà trường
Một con người trưởng thành và hoàn thiện là nhờ quá trình giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội. Trong đó trường học có ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt về đời sống của con người sau này như tiền tài, địa vị nhân phẩm… Thời gian bắt đầu làm quen với chữ cái con số đầu tiên tức là thời gian học tiểu học là khoảng thời gian nhạy cảm và có tính chất quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo nên một con người, chính vì vậy nhà trường luôn luôn chú trọng cả hai mặt:giáo dục và đào tạo. Mục tiêu cụ thể của năm học 2003-2004 là 100% đều là học sinh tiên tiến, trong đó học sinh tiên tiến xuất sắc chiếm 45%, hạnh kiểm tốt đạt 100%…
5. Các công tác quản lý tại trườn:
Công tác quản lý tại trường hiện nay có 3 nhiệm vụ:
Quản lý học sinh:
Có nhiệm vụ quản lý lí lịch của học sinh, quản lý việc học tập của học sinh như điểm số, việc nghỉ học đi trễ, vi phạm kỉ luật, khen thưởng … đưa ra báo cáo vào cuối năm hoặc cuối kì cho lãnh đạo, hay in bảng đIểm cho học sinh.
Quản lý cán bộ công nhân viên:
Cán bộ công nhân viên trong trường gồm chủ tịch công đoàn, những cán bộ làm công tác đoàn, đội…, bộ phận bảo đảm vệ sinh, bảo vệ, và số còn lại phục vụ sinh hoạt cho học sinh bán trú, đội ngũ này gồm 15 người. Ngoài việc quản lý nhân sự và lương của các cán bộ công nhân viên trên còn có công việc quản lý chi tiêu trong phục vụ ăn uống cho học sinh bán trú.
Quản lý giáo viên
Đây là đề tài mà em đang nghiên cứu, công tác quản lý này sẽ được làm rõ ở phần sau của đề tài.
Giới thiệu đề tài nghiên cứu
1. Mục đích của đề tài
Để thực hiện việc dảng dạy cho thật tốt và đạt hiệu quả cao xứng đáng với những danh hiệu mà sở giáo dục trao tặng và lòng tin của phụ huynh, việc quản lý giáo viên , kiểm tra công tác dảng dạy, kiểm tra kết quả học tập của các học sinh mà giáo viên đó giảng dạy cũng như ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên luôn luôn được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên.
Tuy nhiên với số lượng giáo viên và cán bộ công nhân viên khá lớn đồng nghĩa với lượng công việc ,thông tin dữ liệu sẽ rất nhiều nhưng hiện tại việc quản lý giáo viên ở trường chủ yếu bằng giấy tờ rất cồng kềnh và khó nhớ và dễ nhầm lẫn . ví dụ muốn biết giáo viên chủ nhiệm của một lớp nào đó; biết một giáo viên nhưng muốn biết giáo viên đó dạy lớp nào thuộc tổ nào , nhóm nào hay muốn tìm kiếm thông tin về một giáo viên bất kì ,thêm thông tin về một giáo viên mới chuyển đến ,loại bỏ thông tin một giáo viên mới chuyển đi …thì việc tìm kiếm và xử lý thông tin rất mất thời gian và khó khăn.
Bên cạnh đó việc quản lý giáo viên về các mặt như dự giờ , hồ sơ sổ sách, vào điểm , quản lý việc nghỉ dạy ,đi trễ của giáo viên diễn ra trên giấy tờ nên để thực hiện một cách nghiêm túc và chính xác là vô cùng khó khăn và chậm chạp dẫn đến việc báo cáo có tính tổng hợp phân tích cao không thể thực hiện được thường xuyên vì cần nhiều thời gian và khó khăn trong xử lí thông tin.
Những thông tin về giáo viên do hội đồng thi đua khen thưởng kỉ luật của trường thu được sau các đợt thi đua kiểm tra sẽ được thư kí hội đồng chuyển cho chủ tịch hội đồng , hiệu trưởng, hiệu phó xem xét để cuối tháng có các phần thưởng ,kỉ luật xứng đáng. Ngoài ra những thông tin trên còn được chuyển cho hội đồng thanh tra, kiểm tra của sở giáo dục về việc thi đua dạy tốt học tốt giữa các trường và phân loại chất lượng đào tạo giữa các trường .
Để thực hiện tốt công việc quản lý giáo viên đảm bảo cho công tác dạy và học đạt kết quả cao, Hệ thống quản lý giáo viên được phân tích và thiết kế sao cho gần với công tác quản lý bằng phương pháp thủ công hàng ngày. Các chỉ tiêu quản lý và tra cứu được thiết kế để giúp người làm công tác quản lí dễ dàng trong điều hành. Bài toán quản lý giáo viên được thiết kế nhằm giảm bớt sự cồng kềnh phức tạp trong công tác quản lý giáo viên trước đây. Những hệ thống cũng không có sự thay đổi về mặt nghiệp vụ quản lý giáo viên so với quản lý bằng thủ công, mà nó cho phép thực hiện công tác quản lý nhanh, chính xác tiết kiệm thời gian, gọn nhẹ và an toàn hơn.
Hệ thống quản lý này có thể đưa ra các bản báo cáo và các thông tin của cán bộ một cách nhanh nhất với độ chính xác cao nhất. Công việc tra cứu và tìm kiếm cũng được quan tâm với thiết kế và phân tích giúp cho hệ thống thao tác với độ chính xác cao. Hệ thống cũng đảm nhận việc bảo vệ an toàn dữ liệu cho phép sao chép dữ liệu nhằm tránh mất mát thông tin. Bài toán được phân tích và thiết kế cơ sở dữ liệu sao cho hệ thống không cồng kềnh, tránh tình trạng thừa thông tin nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu của bài toán
2. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình tìm hiểu công tác quản lý và giảng dạy ở trường, đồng thời được sự gợi ý của người hướng dẫn thực tập, cô hiệu trưởng Võ Thị Thu Oanh em đã chọn đề tài : “Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý giáo viên tạI trường tiểu học Kim Đồng ”
Hệ thống mới này sẽ hướng vào các mục tiêu:
Phục vụ công tác quản lý một cách thuận tiện nhất trên máy tính: xem, tìm kiếm, thống kê…
đưa ra các báo cáo
Với hệ thống này việc quản lý giáo viên sẽ rất dễ dàng, đỡ tốn thời gian và thuận tiện. Đây cũng là lí do chính để em chọn làm đề tài này
Chương trình được viết bằng hệ quản trị cơ sở dữ liệu Access 2000 và ngôn ngữ lập trình visiual basic 6.0. Access là một hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu mạnh mẽ và phổ biến . Mặt khác Visiual basic 6.0 là ngôn ngữ lập trình hết sức linh động và dễ sử dụng. chính vì vậy mà sự kết hợp của Vb 6.0 và Access 2000 sẽ xây dựng lên một hệ thống ứng dụng hoàn hảo.
CHƯƠNG II
PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ THIẾT KẾ HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ
Thông tin, hệ thống thông tin
1. Thông tin
Có thể nói thông tin vừa là nguyên liệu đầu vào vừa là sản phẩm dầu ra của hệ thống quản lý. Thông tin là thể nền của quản lý cũng giống như năng lượng là thể nền của mọi hoạt động. Không có thông tin thì không có hoạt động quản lý đích thực.
Thông tin từ mt
Tt ra môi trường
Hệ thông quản lý
Đối tượng quản lý
Thông tin tác nghiệp
Thông tin quyết định
2. Hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin là tập hợp những con người, các thiết bị phần cứng, phần mềm, dữ liệu…thực hiện hoạt động thu thập, lưu trữ, xử lý và phân phối thông tin trong một tập các ràng buộc được gọi là môi trường.
Nó được thể hiện bởi những con người, các thủ tục, dữ liệu và các thiết bị tin học hoặc không tin học. Đầu vào của hệ thống thông tin được lấy từ các nguồn và được xử lý bởi hệ thống sử dụng nó cùng với các dữ liệu đã được lưu trữ từ trước. Kết quả xử lý được chuyển đến các đích hoặc cập nhật vào kho lưu trữ dữ liệu.
Nguồn
Thu thập
Xử lý và lưu trữ
Kho dữ liệu
Đích
Phân phát
3. Phân loại hệ thống thông tin trong một tổ chức
Hệ thống thông tin quản lý MIS (management information system), là hệ thống quản lý các hoạt động của tổ chức , các hoạt động này nằm ở mức đIều khiển tác nghiệp, điều khiển quản lý hoặc lập kế hoạch chiến lược. Chúng dựa chủ yếu vào các cơ sở dữ liệu được tạo ra bởi các hệ xử lí giao dịch cũng như từ các nguồn dữ liệu ngoài tổ chức. Nói chung, chúng tạo ra các báo cáo cho các nhà quản lí một cách định kì hoặc theo yêu cầu.
4. Mô hình của hệ thống thông tin
Mô hình logic
(góc nhìn quản lý )
Mô hình vật lý ngoài
(Góc nhìn sử dụng)
Mô hình vật lí trong
(Góc nhìn kĩ thuật
Mô hình ổn định nhất
Mô hình thay đổi nhất
Cái gì? để làm gì?
Cái gì? ở đâu, khi nào?
Như thế nào
Mô hình logic
Mô tả hệ thống làm gì: dữ liệu mà nó thu thập, xử lí mà nó phải thực hiện, các kho để chứa các kết quả hoặc dữ liệu để lấy ra cho các xử lý và những thông tin mà hệ thống sản sinh ra. Mô hình này trả lời câu hỏi “cái gì?” và “Để làm gì?”. Nó không quan tâm tới phương tiện được sử dụng cũng như địa điểm cũng như thời điểm mà dữ liệu được xử lí.
Mô hình vật lý ngoài
Mô hình này chú ý tới những khía cạnh nhìn thấy được của hệ thống như là các vật mang dữ liệu và vật mang kết quả cũng như hình thức của đầu vào và của đầu ra, Phương tiện để thao tác với hệ thống, những dịch vụ bộ phận, con người và vị trí công tác trong hoạt động xử lý, các thủ tục thủ công cũng như những yếu tố về địa điểm thực hiện xử lý dữ liệu,loại màn hình hoặc bàn phím được sử dụng. Mô hình này cũng chú ý tới mặt thời gian của hệ thống, nghĩa là về những thời điểm mà các hoạt động xử lý dữ liệu khác nhau xảy ra. Nó trả lời câu hỏi: Cái gì? Ai? ở đâu và Khi nào?
Mô hình vật lý trong:
Mô hình này liên quan tới những khía cạnh vật lý của hệ thống tuy nhiên không phải là cái nhìn của ngươì sử dụng mà là của nhân viên kĩ thuật. Chẳng hạn đó là những thông tin liên quan tới loại trang thiết bị được dùng để thực hiện hệ thống, dung lượng kho lưu trữ và và tốc độ xử lý của thiết bị, tổ chức vật lý của dữ liệu trong kho chứa, cấu trúc của các chương trình và ngôn ngữ thể hiện. Mô hình giải đáp câu hỏi: Như thế nào?
Mỗi mô hình là một kết quả của một góc nhìn khác nhau, mô hình logic là kết quả của góc nhìn quản lý, mô hình vật lý ngoài là góc nhìn sử dụng và mô hình vật lý trong là góc nhìn của kĩ thuật. Ba mô hình trên có độ ổn định khác nhau, mô hình logic là ổn định nhất và mô hình vật lý trong là hay biến đổi nhất. Khi thiết kế chương trình cần tính tới trang thiết bị để thực hiện chương trình.
II. Khái quát về việc phát triển một hệ thống thông tin
Nguyên nhân dẫn đến việc phát triển hệ thống thông tin
Mục tiêu cuối cùng của những cố gắng phát triển hệ thống thông tin là cung cấp cho những thành viên của tổ chức những công cụ quản lý tốt nhất. Phát triển một hệ thống thông tin bao gồm việc phân tích hệ thống đang tồn tại, Thiết kế một hệ thống mới, thực hiện và tiến hành cài đặt nó. Phân tích một hệ thống bắt đầu từ việc thu thập dữ liệu và chỉnh đốn chúng để đưa ra được chuẩn đoán về tình hình thực tế. Thiết kế là nhằm xác định các bộ phận của hệ thống mới có khả năng cải thiện tình trạng hiện tại và xây dựng các mô hình logic và mô hình vật lý ngoài của hệ thống đó.
Câu hỏi đầu tiên của việc phát triển hệ thống thông tin mới là cái gì bắt buộc một tổ chức phải tiến hành phát triển một hệ thống thông tin ? Đó là sự hoạt động tồi tệ của hệ thống thông tin, những vấn đề về quản lý và việc thâm thủng ngân quỹ là những nguyên nhân đầu tiên thúc đẩy một yêu cầu phát triển hệ thống và một số nguyên nhân khác nữa như yêu cầu của nhà quản lý, công nghệ thay đổi và cả sự thay đổi sách lược chính trị…
III. Phương pháp phát triển hệ thống thông tin
Một hệ thống thông tin là một đối tượng phức tạp, vận động trong một môi trường cũng rất phức tạp. Để làm chủ sự phức tạp đó, phân tích viên cần phải có một cách tiến hành nghiêm túc, một phương pháp.
Một phương pháp được định nghĩa như một tập hợp các bước và các công cụ tiến hành các công cụ cho phép tiến hành một quá trình phát triển hệ thống chặt chẽ nhưng dễ quản lý hơn. Phương pháp được trình bày ở đây gồm 7 giai đoạn:
1. Giai đoạn 1: Đánh giá yêu cầu
Đánh giá yêu cầu có mục đích cung cấp cho lãnh đạo tổ chức hoặc hội đồng giám đốc những dữ liệu đích thực để ra quết định về thời cơ tính khả thi và hiệu quả của một dự án phát triển hệ thống. Giai đoạn này được thực hiện tương đối nhanh và không đòi hỏi chi phí lớn. Nó bao gồm các công đoạn sau:
a. Lập kế hoạch đánh giá yêu cầu
Mỗi giai đoạn của quá trình phát triển hệ thống cần phảI được lập kế hoạch cẩn thận rõ ràng. Nó là bước làm quen với hệ thống đang xét, xác định thông tin phảI thu thập cũng như nguồn và phương pháp thu thập thông tin cần dùng.
b. Làm rõ yêu cầu
Bước này nhằm mục đích cho ta hiểu rõ yêu cầu của người yêu cầu. Chính giai đoạn đánh gía yêu cầu và cụ thể là công đoạn làm rõ yêu cầu cho phép ta xác định câu trả lời, xem người sử dụng muôn gì? Tiếp theo phảI đánh giá xem liệu yêu cầu đúng như đề nghị hay có thể giảm xuống hoặc phảI tăng cường mở rộng thêm. Làm sáng tỏ yêu cầu được thực hiện chủ yếu qua các cuộc gặp gỡ với những người yêu cầu sau đó là những người quản lý chính mà bộ phận của họ bị tác động hoặc bị hệ thống nghiên cứu ảnh hưởng tới. Khung cảnh của hệ thống được xem như là các nguồn và các đích của thông tin, cũng như các bộ phận, các chức năng và các cá nhân tham gia vào quá trình xử lý dữ liệu. Việc tiếp theơ phải làm là tổng hợp thông tin dưới ánh sáng của những vấn đề đã được xác định và những nguyên nhân có thể nhất, chuẩn bị một bức tranh khái quát về giải pháp để tiến hành đánh giá khả năng thực thi của dự án. Phỏng vấn, quan sát, nghiên cứu tài liệu và sử dụng phiếu đIều tra là những công cụ tin dùng của nhà phân tích. Chúng cũng được dùng trong suốt quá trình phát triển dự án nhưng đặc biệt trong giai đoạn đánh gía yêu cầu.
c. Đánh giá tính khả thi
Đánh giá khả thi của một dự án nói chung là xem có yếu tố nào ngăn cản nhà phân tích thực hiện, cài đặt một cách thành công giải pháp đã đề xuất hay không? Tất nhiên là trong quá trình phát triển hệ thống luôn luôn phảI tiến hành đánh giá lại. Nhưng vấn đề chính về khả năng thực thi là khả thi về tổ chức, khả thi về tài chính, khả thi về thời hạn và khả thi về kĩ thuật. Đánh giá khả thi rất quan trọng, đòi hỏi phân tích viên phải hiểu sâu sắc vấn đề, có năng lực thiết kế nhanh các yếu tố của giải pháp và đánh giá chi phí của các giải pháp. Nếu đánh giá được nhận định là không tích cực thì buộc nhà phân tích phải có đề xuất mới.
d. Chuẩn bị và trình bày báo cáo đánh giá yêu cầu
Báo cáo cho phép những nhà quết định cho phép dự án tiếp tục hay dừng lại. Báo cáo phải cung cấp một bức tranh sáng sủa và đầy đủ về tình hình và khuyến nghị những hành động tiếp theo. Báo cáo thường được trình bày để các nhà ra quyết định có thể làm rõ thêm các vấn đề. Nội dung của báo cáo gồm các mục sau:
Nhắc lại yêu cầu
Phương pháp tiến hành đánh giá yêu cầu.
2. Giai đoạn 2: Phân tích chi tiết
Phân tích chi tiết được tiến hành sau khi có sự đánh giá thuận lợi về yêu cầu. Những mục đích chính của phân tích chi tiết là hiểu rõ các vấn đề của hệ thống đang nghiên cứu, xác định những nguyên nhân đích thực của các vấn đề đó, xác định những đòi hỏi và những ràng buộc áp đặt đối với hệ thống và xác định mục tiêu mà hệ thống thông tin mới phải đạt được. Trên cơ sở nội dung báo cáo phân tích chi tiết sẽ quyết định tiếp tục tiến hành hay thôi phát triển một hệ thống mới. Để làm những việc đó giai đoạn phân tích chi tiết bao gồm các công đoạn sau đây
a. Lập kế hoạch phân tích chi tiết
Công đoạn này bao gồm:
Thành lập đội ngũ: Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tầm quy mô của hệ thống, kích cỡ của tổ chức, cách thức quản lý dự án trong tổ chức, sự sẵn sàng và các kinh nghiệm của các thành viên tham gia.
Lựa chon phương pháp và công cụ: Phương pháp làm việc và các công cụ của đội ngũ là các phương tiện làm dễ dàng việc thực hiện các nhiệm vụ. Các công cụ thu thập thông tin chính là phỏng vấn, phiếu điều tra, quan sát và nghiên cứu tài liệu của tổ chức
Xác định thời hạn: cần phảI thực hiện và tuân thủ thời gian đã ấn định.
b. Nghiên cứu môi trường của hệ thống đang tồn tại
Một hệ thống thông tin bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố bên ngoàI và ngược lại nó cũng ảnh hưởng tới các nhân tố đó. Tập hợp các nhân tố đó được gọi là ràng buộc của hệ thống. Việc nghiên cứu nó để đánh giá mức độ phù hợp của các đặc trưng của hệ thống với các rằng buộc của môI trường. Thông tin về môi trường được chia thành 4 lĩnh vực, đó là:
- Môi trường ngoài
Loại hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ
Ngành hoạt động
Sự phát triển chung của ngành
Cạnh tranh và thị phần
Xu thế công nghệ trong ngành
Những bộ luật cơ bản mà ngành phải tuân thủ
Những yếu tố chính yếu của sự thành công cho các tổ chức cùng ngành
- Môi trường tổ chức
Nhiệm vụ
Lịch sử
Kích cỡ, tăng trưởng, thị trường, năng lực
Khách hàng
Chính sách, cấu trúc, mục tiêu dàI hạn và ngắn hạn
Kế hoạch hành động
Mức độ tập trung trách nhiệm
Phân bố địa lý
Cách thức quản lý
Đặc trưng về nhân sự, kinh nghiệm tin học
Các tổ chức công đoàn
Tình trạng tài chính, đầu tư dự kiến ngân sách vay và dự kiến cho xử lý dữ liệu.
- Môi trường vật lý
Phân bố của người sử dụng, khách hàng
Tổ chức của những nơi thực hiện xử lý dữ liệu
Mức độ an ninh kiểm soát
- Môi trường kĩ thuật
Phần cứng và phần mềm tại chỗ cho xử lý dữ liệu, các thiết bị khác, cơ sở dữ liệu và các tệp tin học hoá
Nhân sự phát triển hệ thống và khai thác
c. Nghiên cứu hệ thống thực tại
- Thu thập thông tin về hệ thống đang tồn tại
Hệ thống:
Để có được một hình ảnh đầy đủ về các bộ phận của hệ thống và sự vận động của nó thì các dữ liệu và tàI liệu kể ra sau đây phải được thu thập:
Hoạt động chung của hệ thống
Dữ liệu vào
Thô