Với xu hướng “toàn cầu hoá” hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế đã không còn là vấn đề riêng của bất kỳ một quốc gia nào. Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện địa hoá đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nên nhu cầu về vốn lại càng trở nên cấp thiết. Với tư cách là các “trung gian tài chính”, các Tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với việc huy động mọi nguồn vốn trong dân cư để cung ứng cho nền kinh tế với nhứng điều kiện nhất định. Vốn để các TCTD tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh của mình không chỉ riêng nguồn vốn tự có mà chủ yếu là nguồn vốn huy động được. Do đó có thể nói hoạt động huy động vốn có tác động rất lớn đến các tổ chức tín dụng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Với tầm quan trọng đó của hoạt động huy động vốn, Nhà nước cần phải xây dựng một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng, tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này một cách dễ dàng và hiệu quả. Vậy pháp luật Việt Nam đã quy định như thế nào về hoạt động huy động vốn của các TCTD? Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Pháp luật về huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
55 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1885 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với xu hướng “toàn cầu hoá” hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế đã không còn là vấn đề riêng của bất kỳ một quốc gia nào. Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện địa hoá đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nên nhu cầu về vốn lại càng trở nên cấp thiết. Với tư cách là các “trung gian tài chính”, các Tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với việc huy động mọi nguồn vốn trong dân cư để cung ứng cho nền kinh tế với nhứng điều kiện nhất định. Vốn để các TCTD tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh của mình không chỉ riêng nguồn vốn tự có mà chủ yếu là nguồn vốn huy động được. Do đó có thể nói hoạt động huy động vốn có tác động rất lớn đến các tổ chức tín dụng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Với tầm quan trọng đó của hoạt động huy động vốn, Nhà nước cần phải xây dựng một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng, tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này một cách dễ dàng và hiệu quả. Vậy pháp luật Việt Nam đã quy định như thế nào về hoạt động huy động vốn của các TCTD? Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Pháp luật về huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam trên cơ sở hệ thống lý luận cơ bản và thông qua việc phân tích đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định đó của các TCTD để chỉ ra những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại hạn chế cần phải khắc phục trong quá trình huy động vốn và nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó đưa ra một số định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu và đánh giá khái quát các quy định của pháp luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam, đồng thời tìm hiểu thực tiễn hoạt động này của các TCTD ở một số địa phương trong những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các phương pháp: phân tích – tổng hợp, thống kê, so sánh - đối chiếu, chứng minh ... để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận được chia thành 3 chương với bố cục như sau:
Chương I: Khái quát về hoạt động huy động vốn và các hình thức huy động vốn của các TCTD theo pháp luật Việt Nam.
Chương II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam.
Chương III; Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Khái niệm, vai trò và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam
1.1. Huy động vốn và vai trò của huy động vốn đối với các Tổ chức tín dụng
Theo nghĩa chung nhất huy động vốn là việc các TCTD tập trung những giá trị tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Huy động vốn là hoạt động thường xuyên và luôn gắn liền với kế hoạch kinh doanh của TCTD, bởi lẽ vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để các TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, khi tiến hành các hoạt động huy động vốn, TCTD phải tính toán sao cho việc sử dụng đồng vốn huy động được hiệu quả nhất. Mặt khác, huy động vốn xét về bản chất chính là việc TCTD đi vay tiền từ các chủ sở hữu số tiền đó và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, các TCTD được huy động vốn thông qua bốn hình thức:
- Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
- Huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá
- Huy động vốn bằng việc vay vốn của các TCTD khác
- Huy động vốn thông qua vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
* Vai trò của hoạt động huy động vốn
- Đối với các TCTD:
Huy động vốn đem lại nguồn vốn lớn, chủ yếu cho các TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn này là cơ sở để các TCTD tổ chức mọi hoạt động kinh doanh; quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của TCTD; quyết định năng lực thanh toán và bảo đảm uy tín của TCTD trên thương trường; quyết định năng lực cạnh tranh của TCTD... Không những thế, huy động vốn còn tạo tiền đề để TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh khác như: làm dịch vụ thanh toán, ngân quỹ... góp phần làm tăng thêm lợi nhuận cho các TCTD.
- Đối với nền kinh tế:
Thông qua hoạt động huy động vốn của các TCTD, nền kinh tế có thêm một kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi khác nhau trong dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, sự cung cầu vốn giữa các thành phần khác nhau trong xã hội gặp nhau được dễ dàng hơn. Cũng thông qua hoạt động này, Nhà nước có thể kiểm soát, điều chỉnh chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế. Hơn nữa, với chính sách lãi suất huy động vốn hợp lý, hoạt động huy động vốn của các TCTD sẽ tăng khả năng kích thích tiết kiệm trong nhân dân. Thông qua hoạt động này chúng ta có thể đánh giá được trình độ phát huy nội lực của quốc gia, khai thác tiềm năng của mọi nguồn vốn đang còn tiềm ẩn, thu gom được một lượng tiền tương đối lớn trong nền kinh tế, giảm dần lượng tiền mặt trong lưu thông. Từ đó, các TCTD có thể tập trung được các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng
Hoạt động huy động vốn của các TCTD có diễn ra thuận lợi hay không còn tuỳ thuộc vào sự tác động của nhiều nhân tố. Song tựu chung lại, những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này được xem xét qua hai nhóm đó là: nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
1.2.1. Nhân tố khách quan
- Hành lang pháp lý
Hành lang pháp lý có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của TCTD. Có những bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động này như: Luật các TCTD, Luật Ngân hàng Nhà nước... Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của TCTD so với vốn tự có, quy định các hình thức huy động vốn...Bên cạnh những bộ luật này, chính sách tiền tệ của quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn của các TCTD. Điều đó được thể hiện ở một số khía cạnh:
+ Mục tiêu của chính sách tiền tệ: Mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm: kiểm soát lạm phát, bình ổn giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. Tuỳ thuộc vào việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ mà sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động huy động vốn là khác nhau. Chẳng hạn, khi lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì các TCTD huy động vốn dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì TCTD khó huy động vốn hơn vì người có tiền nhàn rỗi sẽ bỏ tiền vào sản xuất vì làm như vậy có lợi hơn gửi ngân hàng...
+ Việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ: Trong quá trình vận hành các công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, mỗi một công cụ đều tác động đến hoạt động huy động vốn của các TCTD. Cụ thể là:
( Lãi suất chiết khấu: Ngân hàng nhà nước thực hiện tái cấp vốn để cung ứng tiền ra lưu thông bằng biện pháp tái chiết khấu. Nếu chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát thì lúc đó Ngân hàng Nhà nước cung ứng tiền ra lưu thông với lãi suất tái chiết khấu cao. Và như vậy sẽ hạn chế việc các TCTD vay Ngân hàng Nhà nước.
( Dự trữ bắt buộc: Khi tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là Ngân hàng Nhà nước cho hoặc không cho các TCTD sử dụng khối lượng tiền Trung ương bị coi là thiếu hay dư thừa, tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của TCTD.
- Chính sách đầu tư của Nhà nước
Chính sách đầu tư của Nhà nước có hợp lý hay không đều ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh không chỉ của khách hàng mà ngay cả đối với các TCTD. Bởi vì, khi chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo điều kiện cho sản xuất phát triển dẫn đến các TCTD có môi trường đầu tư thuận lợi và đòi hỏi các TCTD phải tìm mọi cách để mở rộng hoạt động huy động vốn của mình.
- Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước
Nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn của các TCTD. Ngược lại, khi nền kinh tế không tăng trưởng, sản xuất kìm hãm, nền kinh tế bị suy thoái làm cho môi trường đầu tư của TCTD bị thu hẹp. Bên cạnh đó, lạm phát làm cho đồng tiền bị mất giá, người dân sẽ không gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền để mua hàng cất trữ, vì vậy cũng ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của các TCTD.
- Tâm lý thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của TCTD. Nếu ở những vùng dân cư quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ là chính thì việc huy động vốn của TCTD gặp khó khăn hơn. Chẳng hạn, vào thời kỳ vàng có giá trị, người ta dùng tiền nhàn rỗi để mua vàng cất trữ... còn khi người gửi tiền có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và cơ hội huy động vốn của các TCTD tăng lên. Ngoài ra, mức thu nhập của người dân cũng là một yếu tố trực tiếp quyết định trực tiếp đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập càng cao, nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng và lúc này nhu cầu mở tài khoản cũng như tiền gửi vào ngân hàng sẽ tăng lên.
1.2.2. Nhân tố chủ quan
- Hình thức huy động
Hình thức huy động càng đa dạng, đáp ứng được nhu cầu vô cùng phong phú của khách hàng thì việc huy động vốn dễ dàng hơn.
- Hình thức cho vay
Nếu như hình thức cho vay của TCTD được mở rộng chẳng hạn như không chỉ có cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mà còn mở rộng sang cả các hình thức cho vay như cho vay hợp vốn, liên doanh, liên kết, mua bán các khoản nợ... buộc các TCTD phải tìm kiếm nguồn vốn cho chính mình, huy động vốn thế nào cho phù hợp. Ví dụ: nhu cầu sử dụng nguồn vốn dài hạn lớn thì phải tìm cách huy động vốn dài hạn chứ không được vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.
- Công nghệ thanh toán và tin học
Trước đây công nghệ thanh toán còn lạc hậu, khách hàng chủ yếu thanh toán bằng tiền mặt. Nhưng ngày nay do công nghệ thanh toán hiện đại, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng chiếm ưu thế, thay vì thanh toán bằng tiền mặt khách hàng chuyển sang thanh toán bằng séc, thẻ... Để thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, khách hàng phải mở tài khoản tại ngân hàng nên ngân hàng thực hiện được việc huy động vốn trên tài khoản của khách hàng.
- Năng lực và trình độ quản lý của cán bộ ngân hàng
Nếu quản lý tốt trong quá trình hoạt động, ngân hàng sẽ đảm bảo được an toàn vốn, nâng cao uy tín, năng lực cạnh tranh từ đó thu hút được khách hàng đến gửi tiền. Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao, công tác huy động vốn được thực hiện càng nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
- Mạng lưới phục vụ cho huy động vốn
Mạng lưới huy động vốn càng rộng rãi càng có thể khai thác tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Do đó, không chỉ cần mở rộng mạng lưới ở vùng đông dân cư mà còn cần được mở ra ở những nơi cách xa trung tâm thành phố như nông thôn, vùng xâu, vùng xa... Ngược lại, mạng lưới hẹp sẽ gây khó khăn cho khách hàng muốn gửi tiền do chi phí giao dịch lớn, mất thời gian.
- Lãi suất huy động
Đối với người gửi tiền là doanh nghiệp, gửi tiền vào các TCTD với mục đích thanh toán thì lãi suất không phải là cái đích mà họ hướng tới. Điều họ quan tâm lớn nhất là việc sử dụng các dịch vụ từ TCTD. Tuy nhiên bên cạnh bộ phận gửi tiền với mục đích này thì vốn huy động của các TCTD còn bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tiền gửi tiết kiệm của dân cư với mục đích hưởng lãi là chính, vì vậy lãi suất là điều họ rất quan tâm và bộ phận này rất nhạy cảm với lãi suất. Mặt khác, khi huy động vốn dưới hình thức vay vốn từ các TCTD khác hoặc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước... để tạo được nhiều nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu sử dụng của mình, các TCTD cần phải có chính sách lãi suất hợp lý sao cho lãi suất huy động vừa đảm bảo kích thích người gửi tiền vừa phù hợp với lãi suất cho vay, tránh tình trạng huy động vốn với giá cao mà đầu tư với giá thấp.
- Việc tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, rủi ro xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, sự an toàn của các TCTD không chỉ là mối quan tâm của các cổ đông, các nhà điều hành mà còn là mối quan tâm đặc biệt đối với khách hàng, vì phần lớn vốn kinh doanh của của TCTD là vốn huy động từ bên ngoài. Để lấy được niềm tin của người gửi tiền, đồng thời bảo vệ lợi ích của họ khi TCTD phá sản, các TCTD phải tham gia bảo hiểm tiền gửi và khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra chi trả toàn bộ số tiền cho ngươì gửi tiền trong giới hạn được bảo hiểm.
- Ngoài ra còn phải kể đến các yếu tố khác như: uy tín; thái độ phục vụ; cơ sở hạ tầng; các dịch vụ do TCTD cung ứng... cũng có ảnh hưởng đến tâm lý của người gửi tiền và do đó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động huy động vốn.
1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Điều chỉnh bằng pháp luật là việc Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của Nhà nước. Cũng như hàng loạt các quan hệ khác trong xã hội, quan hệ huy động vốn của các TCTD cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật, bởi vì:
Thứ nhất, thông qua các quy định của pháp luật về hoạt động huy động vốn của TCTD, Nhà nước có thể thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội. Với việc đưa ra những quy định về lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định về bảo hiểm tiền gửi, quy định điều kiện để được vay vốn Ngân hàng Nhà nước... Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của TCTD bằng cách tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc hạn chế việc huy động vốn của các TCTD.
Thứ hai, hoạt động huy động vốn của các TCTD là hoạt động chứa đựng nguy cơ rủi ro cao, sự tác dộng tích cực hoặc tiêu cực của nó thường mang tính phản ứng “dây chuyền” do đó ảnh hưởng đến cả hệ thống TCTD và tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi mà không được Nhà nước quản lý chặt chẽ thì có thể dẫn đến việc các TCTD lợi dụng đặc quyền được huy động vốn bằng nhận các loại tiền gửi để lừa đảo dân chúng trên phạm vi rộng, với số lượng lớn. Mặt khác, các TCTD huy động vốn mà không sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả, để thất thoát vốn sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, thanh toán cho người gửi tiền, từ đó gây tâm lý hoang mang cho những người gửi tiền khác khiến họ đồng loạt tới các TCTD rút tiền, đẩy các TCTD khác vào tình trạng thiếu khả năng chi trả. Điều đó dẫn đến sự đổ vỡ toàn bộ hệ thống TCTD, gây ra khủng hoảng về tài chính- tiền tệ, gây mất ổn định kinh tế. Dân chúng mất lòng tin vào các TCTD, nguồn vốn nhàn rỗi không được tập trung cho đầu tư phát triển, nền kinh tế khó mà phát triển được. Bởi vậy, hoạt động huy động vốn cần phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ.
Thứ ba, để bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khác trong hoạt động huy động vốn, đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các TCTD trong quá trình huy động vốn cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, thông qua việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các TCTD, Nhà nước có thể kiểm soát được tình hình hoạt động kinh doanh của các TCTD, từ đó kịp thời có biện pháp xử lý, giúp TCTD thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính.
2. Kết cấu pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng
Hiện nay, theo quy định của Luật các TCTD năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi bổ, sung luật TCTD năm 2004) các TCTD được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi:
+ Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các TCTD khác
+ TCTD phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Nhà nước.
- Phát hành giấy tờ có giá: TCTD được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Vay vốn giữa các TCTD: Các TCTD được vay vốn của nhau và của TCTD nước ngoài.
- Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước: TCTD là ngân hàng được vay vốn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại điều 30 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2.1. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
2.1.1. Khái niệm tiền gửi
Điều 20 khoản 9 Luật các TCTD 1997 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung luật TCTD năm 2004) đưa ra định nghĩa về tiền gửi: “Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại TCTD hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”.
Như vậy, trên phương diện pháp lý thì “quan hệ tiền gửi” là quan hệ kinh tế phát sinh giữa một bên là tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là tổ chức được phép nhận tiền gửi. Xét về bản chất, quan hệ tiền gửi là một quan hệ hợp đồng vay nợ, bởi vì :
- Quan hệ này được thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do thoả thuận giữa các chủ thể.
- Có sự chuyển giao một lượng tiền nhất định từ người gửi tiền sang tổ chức nhận tiền gửi để tổ chức này quản lý, sử dụng. Sau đó, tổ chức nhận tiền gửi có nghĩa vụ phải hoàn trả cho người gửi tiền cả gốc và lãi (nếu có) khi đến hạn hoặc khi người gửi tiền có yêu cầu.
- Quan hệ gửi tiền phát sinh trên cơ sở có sự tín nhiệm giữa các bên.
Tuy quan hệ gửi tiền là quan hệ vay nợ nhưng nó có những đặc điểm riêng giúp ta phân biệt với các quan hệ vay nợ thông thường khác. Đó là:
Thứ nhất, về chủ thể: Quan hệ gửi tiền bao gồm hai loại chủ thể là người gửi tiền và tổ chức tín dụng.
Người gửi tiền là tổ chức, cá nhân trong xã hội có nhu cầu gửi tiền và có tiền để gửi. Họ đóng vai trò là người cho vay trong quan hệ này.
Tổ chức nhận tiền gửi là các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi của công chúng (sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước được thể hiện bằng việc ghi nhận nghiệp vụ này trong giấy phép hoạt động). Trong quan hệ gửi tiền, tổ chức nhận tiền gửi đóng vai trò là bên đi vay. Tuy nhiên, đây là hoạt động đi vay mang tính kinh doanh chuyên nghiệp được chủ thể này thực hiện thường xuyên.
Thứ hai, về hình thức của quan hệ: Hình thức của quan hệ gửi tiền được xác lập theo một cách thức riêng (giấy đề nghị gửi tiền) mang tính nghiệp vụ chuyên biệt, được lập theo mẫu in có sẵn của TCTD nhận tiền gửi nhằm bảo đảm tính tiện lợi, nhanh chóng, đơn giản mà vẫn chứa đựng đầy đủ những nội dung cần thiết của một hợp đồng vay nợ.
Thứ ba, về mục đích: Trong quan hệ gửi tiền mỗi bên đều hướng tới những mục đích riêng, thậm chí trong mỗi loại tiền gửi khác nhau người gửi tiền lại hướng đến các mục đích khác nhau.
* Đối với tổ chức nhận tiền gửi: Mục đích của việc nhận tiền gửi là nhằm huy động vốn để sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình thông qua việc cấp tín dụng hoặc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho khách hàng. Chính từ hoạt động này các tổ chức nhận tiền gửi được gọi là các “trung gian tài chính”, đóng vai trò là cầu nối giữa cung - cầu vốn, hoạt động kinh doanh theo phương thức “đi vay để cho vay”.
* Đối với người gửi tiền: Việc tham gia quan hệ gửi tiền nhằm mục đích vừa để đảm bảo an toàn cho tiền vốn (tiền gửi vào sẽ được tổ chức nhận tiền gửi trông giữ, bảo quản hộ) vừa để đồng vốn sinh lời khi chưa có