Việt Nam là một đất nước có nhiều nghề thủ công truyền thống, với đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp mùa vụ và chế độ làng xã, nghề thủ công xuất hiện khá sớm và gắn liền với lịch sử của dân tộc. Các làng nghề đã hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, của đời sống cộng đồng và dần dần được qui về các khái niệm như nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề gia truyền.Trải qua những thăng trầm của thời gian, những làng nghề truyền thống đã chứng tỏ được sức sống bền bỉ của mình, giữ gìn được những nét đẹp văn hóa của cha ông chúng ta. Hiện nay, nước ta có khoảng gần 2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm ngành nghề chính như: Sơn mài, đồ gỗ mỹ ngệ, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá Có thể nói rằng những làng nghề truyền thống này có vị trí vô cùng quan trọng trong phát triển nền kinh tế của các địa phương nó trực tiếp giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn. Hơn nữa, các làng nghề truyền thống còn tạo ra rất nhiều sản phẩm không chỉ đơn thuần là trao đổi thương mại mà còn có giá trị to lớn về văn hoá và lịch sử của đất nước.
Phú Xuyên là một trong những huyện có nhiều làng nghề nổi tiếng của Hà Nội Hiện nay, toàn huyện có hơn 100 làng nghề thủ công, trong đó có 38 làng được công nhận làng nghề truyền thống theo tiêu chí thành phố với những nhóm nghề như sơn mài, khảm trai, mây giang đan, đồ gỗ, da giày. Nhiều sản phẩm đã xuất khẩu sang các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản Nhờ công tác nhân cấy nghề, đến nay các làng trên địa bàn huyện đều đã có nghề, giải quyết trên 70% lao động nông thôn, tiêu biểu như nghề khảm trai Chuyên Mỹ thu hút 95% lao động nông thôn; làng nghề mây, tre, giang đan xã Phú Túc thu hút 70% lao động, làng nghề da giầy xã Phú Yên thu hút trên 80% lao động, làng nghề mộc dân dụng xã Tân Dân thu hút 80% lao động.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển LNTT (làng nghề truyền thống) trên địa bàn huyện hiện nay đang còn bộc lộ nhiều bất cập như: Phát triển nghề vẫn mang tính tự phát, phân tán, quy mô sản xuất nhỏ chủ yếu là hộ gia đình, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng cạnh tranh không cao, mẫu mã sản phẩm ít sáng tạo. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được bền vững một số sản phẩm không cạnh tranh được với hàng Trung Quốc và các địa phương khác. Bên cạnh đó là tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, ô nhiễm khí thải từ các làng nghề, ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống trong các làng nghề truyền thống nói riêng ở địa phương nói chung. Vấn đề về quy hoạch làng nghề gắn với bảo vệ môi trường và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong các làng nghề truyền thống, đào tạo nguồn nhân lực và trong trong tương lai tiếp tục phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch, tiến hành xây dựng thương hiệu cần được định hướng như thế nào để có thể phát triển bền vững.
Từ những bất cập đó huyện Phú Xuyên phải làm thế nào để phát triển bền vững các làng nghề trên địa bàn huyện đang có. Nhằm giải quyết những bất cập nêu trên, đồng thời đưa ra các giải pháp giải quyết những bất cập đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:"Phát triển bền vững làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội”.
132 trang |
Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 3916 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển bền vững làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện phú xuyên thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
----------***----------
LÊ ĐĂNG HẢI
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ XUYÊN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
----------***----------
LÊ ĐĂNG HẢI
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ XUYÊN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.31.10
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGÔ THỊ THUẬN
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tintrích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà nội, ngày. tháng .. năm 2015
Tác giả
Lê Đăng Hải
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và sự đóng góp quý báu của nhiều tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành bản luận văn này.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Ngô Thị Thuận - Giảng viên đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô thuộc Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Bộ môn Phân tích định lượng Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ tôi hoàn thành quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của UBND huyện Phú Xuyên, Phòng Thống Kê, Phòng Công thương, Phòng kinh tế huyện Phú Xuyên, UBND các xã địa phương đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu, những thông tin cần thiết để hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới gia đình, đồng nghiệp và bạn bè - những người đã luôn bên tôi, động viên, giúp đỡ tôi về vật chất cũng như tinh thần trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày. tháng .. năm 2015
Tác giả
Lê Đăng Hải
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất huyện Phú Xuyên 34
Bảng 3.2: Dân số lao động huyện Phú Xuyên 36
Bảng 3.3: Cơ cấu GDP các ngành kinh tế huyện Phú Xuyên từ 2011 đến 2013 (tính theo giá thực tế 1994) 38
Bảng 3.4: Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp 40
Bảng 4.1: Số lượng và cơ cấu làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên 48
Bảng 4.2: Lao động và các hình thức tổ chức làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Phú Xuyên 50
Bảng 4.3: Hiện trạng phát triển sản xuất các làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên năm 2013 53
Bảng 4.4: Tình hình sử dụng đất đai bình quân 1 hộ điều tra ở các làng nghề truyền thống 56
Bảng 4.5: Tình hình sử dụng trang thiết bị máy móc bình quân một hộ ở các làng nghề truyền thống 57
Bảng 4.6: Tình hình sử dụng lao động bình quân 1 hộ ở các làng nghề 59
Bảng 4.7: Tình hình sử dụng vốn của các cơ sở điều tra tính bình quân trên hộ 61
Bảng 4.8: Nguyên vật liệu và chi phí nguyên vật liệu bình quân 1 hộ điều tra năm 2013 ở các làng nghề truyền thống 63
Bảng 4.9: Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ trong một năm ở các làng nghề truyền thống 64
Bảng 4.10: Chủng loại khối lượng và giá bán sản phẩm mây tre đan của các hộ điều tra năm 2013 66
Bảng 4.11: Chủng loại khối lượng và giá bán sản phẩm giày da của các hộ điều tra năm 2013 67
Bảng 4.12: Chủng loại khối lượng và giá bán sản phẩm các hộ điều tra làng mộc Tân Dân 68
Bảng 4.13: Thị trường tiêu thụ sản phẩm mây tre đan Phú Túc 71
Bảng 4.14: Kết quả và hiệu quả kinh tế bình quân 1 hộ của các làng nghề truyền thống năm 2013 76
Bảng 4.16: Một số chỉ tiêu phân tích bền vững về kinh tế LNTT đại diện 79
Bảng 4.17: Một số chỉ tiêu phân tích bền vững về xã hội 80
Bảng 4.18 : Bảng phân tích SWO 86
Bảng 4.19: Đánh giá các nhân tố khó khăn của các hộ ở làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên 89
Bảng 4.20: Khó khăn tiêu thụ và chủng loại sản phẩm ở các làng nghề 91
Bảng 4.21: Thị trường nguyên liệu để sản xuất ở các làng nghề truyền thống địa bàn Phú Xuyên 94
Bảng 4.22: Lợi ích của trang thiết bị máy móc tại các làng nghề 96
Bảng 4.23: Nhận thức của các hộ về mức độ ô nhiễm tại các làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Phú Xuyên 101
DANH MỤC ĐỒ THỊ
Đồ thị 4.1: Ý kiến của các cơ sở sản xuất về nguồn lao động ở các làng nghề 91
Đồ thị 4.2: Ý kiến của các hộ về nguyên liệu đầu vào ở các làng nghề 94
Đồ thị 4.3: Mức độ vay vốn của các cơ sở tại các LNTT đại diện 97
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 4.1: Kênh tiêu thụ sản phẩm mây tre đan Phú Túc 69
Sơ đồ 4.2: Kênh tiêu thụ sản phẩm giày da Phú Yên 72
Sơ đồ 4.3: Kênh tiêu thụ sản phẩm mộc Tân Dân 74
DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1: Sản phẩm của làng nghề mây tre đan Phú Túc 65
Hình 4.2: Sản phẩm của làng nghề giày da Phú Yên 67
Hình 4.3: Sản phẩm của làng nghề mộc Đại Nghiệp Tân Dân 68
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BQ
Bình quân
CC
Cơ cấu
CP
Chính phủ
KD
Kinh doanh
LNTT
Làng nghề truyền thống
NĐ
Nghị định
NQ
Nghị quyết
SL
Số lượng
SP
Sản phẩm
SWOT
Strength – Weak – Opertunity – Threat
Mạnh – Yếu – Cơ hội – Thách thức
SX
Sản xuất
SXKD
Sản xuất kinh doanh
SXTT
Sản xuất tiêu thụ
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
TP
Thành phố
UBND
Ủy ban nhân dân
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước có nhiều nghề thủ công truyền thống, với đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp mùa vụ và chế độ làng xã, nghề thủ công xuất hiện khá sớm và gắn liền với lịch sử của dân tộc. Các làng nghề đã hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, của đời sống cộng đồng và dần dần được qui về các khái niệm như nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề gia truyền.Trải qua những thăng trầm của thời gian, những làng nghề truyền thống đã chứng tỏ được sức sống bền bỉ của mình, giữ gìn được những nét đẹp văn hóa của cha ông chúng ta. Hiện nay, nước ta có khoảng gần 2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm ngành nghề chính như: Sơn mài, đồ gỗ mỹ ngệ, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, giấy, tranh dân gian, gỗ, đáCó thể nói rằng những làng nghề truyền thống này có vị trí vô cùng quan trọng trong phát triển nền kinh tế của các địa phương nó trực tiếp giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn. Hơn nữa, các làng nghề truyền thống còn tạo ra rất nhiều sản phẩm không chỉ đơn thuần là trao đổi thương mại mà còn có giá trị to lớn về văn hoá và lịch sử của đất nước.
Phú Xuyên là một trong những huyện có nhiều làng nghề nổi tiếng của Hà Nội Hiện nay, toàn huyện có hơn 100 làng nghề thủ công, trong đó có 38 làng được công nhận làng nghề truyền thống theo tiêu chí thành phố với những nhóm nghề như sơn mài, khảm trai, mây giang đan, đồ gỗ, da giày... Nhiều sản phẩm đã xuất khẩu sang các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản Nhờ công tác nhân cấy nghề, đến nay các làng trên địa bàn huyện đều đã có nghề, giải quyết trên 70% lao động nông thôn, tiêu biểu như nghề khảm trai Chuyên Mỹ thu hút 95% lao động nông thôn; làng nghề mây, tre, giang đan xã Phú Túc thu hút 70% lao động, làng nghề da giầy xã Phú Yên thu hút trên 80% lao động, làng nghề mộc dân dụng xã Tân Dân thu hút 80% lao động.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển LNTT (làng nghề truyền thống) trên địa bàn huyện hiện nay đang còn bộc lộ nhiều bất cập như: Phát triển nghề vẫn mang tính tự phát, phân tán, quy mô sản xuất nhỏ chủ yếu là hộ gia đình, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng cạnh tranh không cao, mẫu mã sản phẩm ít sáng tạo. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được bền vững một số sản phẩm không cạnh tranh được với hàng Trung Quốc và các địa phương khác. Bên cạnh đó là tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, ô nhiễm khí thải từ các làng nghề, ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống trong các làng nghề truyền thống nói riêng ở địa phương nói chung. Vấn đề về quy hoạch làng nghề gắn với bảo vệ môi trường và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong các làng nghề truyền thống, đào tạo nguồn nhân lực và trong trong tương lai tiếp tục phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch, tiến hành xây dựng thương hiệu cần được định hướng như thế nào để có thể phát triển bền vững.
Từ những bất cập đó huyện Phú Xuyên phải làm thế nào để phát triển bền vững các làng nghề trên địa bàn huyện đang có. Nhằm giải quyết những bất cập nêu trên, đồng thời đưa ra các giải pháp giải quyết những bất cập đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:"Phát triển bền vững làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển, các yếu tố ảnh hưởng mà đề xuất định hướng, giải pháp đẩy mạnh phát triển bền vững LNTT trên địa bàn huyện Phú Xuyên.
Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững làng nghề truyền thống.
Đánh giá thực trạng phát triển LNTT, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững làng nghề truyền thống tại huyện Phú Xuyên những năm qua.
Đề xuất những giải pháp đẩy mạnh phát triển bền vững làng nghề truyền thống tại huyện Phú Xuyên những năm tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các loại sản phẩm tại các làng nghề truyền thống
Các hộ gia đình sản xuất kinh doanh tại các làng nghề truyền thống
Các văn bản pháp quy liên quan đến phát triển làng nghề truyền thống
Các vấn đề kinh tế xã hội và môi trường liên quan tại các làng nghề truyền thống.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh LNTT trên địa bàn huyện Phú Xuyên. Qua việc phân tích thực trạng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng, trên cơ sở đó đề xuất định hướng, giải pháp chủ yếu đẩy mạnh sự phát triển bền vững LNTT trên địa bàn huyện Phú Xuyên.
Về không gian: Đề tài chủ yếu đi sâu điều tra, khảo sát các hộ sản xuất kinh doanh tập trung tại 3 làng truyền thống nghề gồm: Làng nghề mây tre đan (Lưu Thượng) xã Phú Túc, làng nghề giày da xã Phú Yên (Giẽ Thượng) và làng nghề mộc (Đại nghiệp) xã Tân Dân.
Phạm vi thời gian: Các số liệu thứ cấp được thu thập từ 2011 đến 2013. Các giải pháp được đề xuất tới 2020 đến 2025. Dữ liệu sơ cấp khảo sát năm 2014.
Câu hỏi nghiên cứu
Phát triển làng nghề truyền thống gồm những nội dụng và tiêu chí đánh giá?
Sản phẩm của các làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện gồm những sản phẩm nào? Sản xuất tiêu thụ ra sao?
Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống thể nào? Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững LNTT trên địa bàn huyện Phú Xuyên gì?
Giải pháp để phát triển bền vững LNTT trên địa bàn huyện Phú Xuyên là gì?
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Lý luận về phát triển bền vững làng nghề truyền thống
Lý luận về làng nghề truyền thống
Các khái niệm
Nghề Truyền thống
Truyền thống là thuật ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống thể hiện tính kế thừa là chủ yếu, tuy nhiên cũng có sự phát triển theo lịch sử. Truyền thống được biểu hiện ở hình thức như truyền thống học tập, lễ hội truyền thống, truyền thống dòng họ, nghề truyền thống.
Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì: “Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.”
Đặc trưng cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là: phải có kỹ thuật và công nghệ truyền thống, đồng thời có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Sản phẩm làm ra phải có tính hàng hoá, đồng thời có tính nghệ thuật và mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Những nghề truyền thống thường được truyền trong một gia đình, một dòng họ, một làng, một vùng. Trong những làng nghề truyền thống, đa số người dân đều hành nghề truyền thống đó. Ngoài ra, họ còn có thể phát triển những nghề khác, những nghề này chiếm tỷ lệ nhỏ hơn so với nghề truyền thống.
Ngày nay, việc sản xuất các sản phẩm có tính truyền thống được hỗ trợ bởi quy trình công nghệ mới với nhiều loại nguyên vật liệu mới. Do vậy khái niệm nghề truyền thống cũng được nghiên cứu và mở rộng hơn.
Hiện nay ở nước ta tồn tại nhiều nghề truyền thống khác nhau, việc phân loại các nhóm nghề tương đối khó khăn, nó chỉ mang ý nghĩa tương đối, bởi vì một số người có thể vừa thuộc nhóm này song cũng có thể vừa thuộc nhóm khác. Mặt khác, một số nghề đối với địa phương được coi là nghề truyền thống, nhưng trên phạm vi vĩ mô có thể chưa được gọi là nghề truyền thống. Có nhiều cách phân loại nghề, tuy nhiên có thể xem xét một số cách như sau:
Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm sứ, chạm khảm gỗ, chạm khắc đá, thêu, vàng bạc
Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống như: nề, mộc, hàn, đúc đồng, gang, nhôm, sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ
Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng như: dệt vải, dệt chiếu, khâu nón
Các ngành nghề chế biến lương thực thực phẩm như: xay xát, làm bún bánh, nấu rượu, nấu đường mật, chế biến thủy sản
Để được công nhận là một nghề truyền thống thì theo Thông tư116/2006/TT BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải đạt 03 tiêu chí sau:
Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận
Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc
Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Làng nghề
Làng, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là một khối người quây quần ở một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào của xã hội của người Việt, là một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một không gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại cùng sinh sống và sản xuất. Trong quá trình đô thị hóa, khái niệm làng được hiểu một cách tương đối. Một số địa phương hiện nay không còn được gọi là làng mà thay vào đó là những tên gọi khác như phố, khối phố. Tuy nhiên, dù tên gọi là có thay đổi nhưng bản chất của cộng đồng dân cư đó vẫn gắn với nông thôn thì vẫn được xem là làng.
Các làng ở nước ta được chia làm 4 loại chính:
Làng thuần nông hay còn gọi là làng nông nghiệp, là những làng nghề nông một cách thuần túy.
Làng buôn bán, là làng làm nghề nông có thêm nghề buôn bán của một số thương nhân chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp.
Làng nghề, là làng làm nghề nông nghiệp nhưng có thêm một số nghề thủ công.
Làng chài, là làng của các cư dân làm nghề chài lưới, đánh cá sống ở ven sông, ven biển.
Các nghề thủ công ở các làng quê lúc đầu chỉ là ngành nghệ phụ, chủ yếu được nông dân tiến hành trong lúc nông nhàn. Về sau, các ngành nghề thủ công tách dần khỏi nông nghiệp nhưng lại phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, khi đó người thợ thủ công có thể không còn sản xuất nông nghiệp nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê mình. Khi nghề thủ công phát triển, số người chuyên làm nghề thủ công và sống được bằng nghề này tăng lên, điều nay diễn ra ngay trong các làng quê và đó là cơ sở cho sự tồn tại của các làng nghề ở nông thôn.
Theo Thông tư 116/2006/TT- BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau”.
Như vậy khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung chính sau: “Làng nghề là một thiết chế KT-XH ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lí nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế - xã hội và văn hóa”.
Phân loại và tiêu chí công nhận làng nghề: Việc phân loại loại nghề cũng khá phức tạp người ta thường dựa vào quy mô, lĩnh vực và lịch sử hình thành, ngành nghề sản xuất, loại hình kinh doanh, tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề.
Để được công nhận là một làng nghề thì theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải đạt 03 tiêu chí sau:
(1) Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn
(2) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận
(3) Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Làng nghề truyền thống
Khái niệm làng nghề truyền thống (LNTT) được khái quát dựa trên hai khái niệm nghề truyền thống và làng nghề nêu trên. Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời”.
Tác giả luận án Bạch Thị Lan Anh cho rằng: “LNTT là làng nghề được tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt cácthành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc”, (Bạch Thị Lan Anh, 2010).
Như vậy LNTT được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian vẫn duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các LNTT thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc dạy nghề được thực hiện bằng phương pháp truyền nghề.
Đặc điểm làng nghề truyền thống
Điều kiện sản xuất kinh doanh gắn bó với hộ gia đình nông thôn và ngành nông nghiệp: Nghề thủ công truyền thống bắt đầu tư nông nghiệp và gắn liền với sự phân công lao động ở nông thôn nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt tự cung tự cấp của người nông dân và chủ yếu phục vụ nông nghiệp. Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn nhân lực, nguồn vốn chủ yếu và là thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Lao động trong các làng nghề chủ yếu là nghề nông, các gia đình tự quản lý, phân công lao động, thời gian cho phù hợp giữa việc sản xuất nông nghiệp lúc mùa vụ với nghề thủ công lúc nông nhàn.
Về sản phẩm: Sản phẩm lành nghề truyền thống nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất. Nó là các vật dụng hàng ngày, có thể là những sản phẩm vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ, nhân văn và xã hội. Các sản phẩm của làng nghề truyền thống được tạo ra với bộ óc sang tạo và thông bàn tay khéo léo và sự tinh tế tinh vi của người thợ hay có thể là các nghệ nhân.
Chật lượng sản phẩm thường không đồng đều do việc sản xuất không thể tạo ra nhiều sản phẩm giống nhau, chỉ là do các người thợ sản xuất và tạo nên từng sản phẩm đơn lẻ. Do đó, khó đáp ứng được các hợp đồng lớn.
Kỹ thuật công nghệ: Làng nghề truyền thống thường sử dụng những công cụ thủ công, công nghệ mang tính cổ truyền do lịch sử để lại và do chính người lao động trong làng nghề tạo ra. Kỹ thuật đặc biệt nhất của làng nghề là những bí quyết, kinh nghiệm của người thợ được tích lũy qua nhiều thế hệ, giữ được tính chất bí truyền của nghề.
Tổ chức sản xuất kinh doanh: Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề hiện nay chủ yếu là hộ gia đình. Do vậy, đây được xem là mo hình sản xuất nhỏ, thường chỉ sử dụng lao động gia đình, do đó ai cũng có thể tham gia. Chính mô hình nhỏ này là một bất lợi cho việc tiếp nhận công nghệ, năng lực quản lý, năng lực tài chính, năng lực sản xuất còn kém vì vậy việc tiếp nhận các đơn đặt hang lớn thường khó khăn. Tuy nhiên nó lại là mô hình tổ chức sản xuất phù hợp nhất với cơ sở vật chất ở làng nghề truyền thống hiện nay do có nhiều ưu điểm như tranh thủ thời gian lao động, linh hoạt trong sản xuất thích ứng với cuộc sống lao động sản xuất ở vùng nông thôn.
Bên cạnh các hộ sản xuất còn có các mô hình mới như hợp tác xã, các doanh nghiệp, các công ty cổ phần những mô hình này hoạt động theo Luật hợp tác xã và Luật doanh nghiệp. Các mô hình sản xuất này khá phù hợp với xu hướng thị trường hiện nay và ngày một đã khẳng định được vai trò của mình trong xu thế hội nhập của các làng nghề truyền thống.
Vai tr