Đề tài Phát triển các loại dịch vụ logistics có khả năng cạnh tranh ở Việt Nam

Ngày nay, thuật ngữ logistics được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế như một ngành mang lại nhiều nguồn lợi to lớn. Nhưng nhìn chung Logistics là dịch vụ có cái tên mới mẻ đối với nhiều người Việt Nam nhưng có một vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất - kinh doanh của một ngành và cả nền kinh tế. Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP.

doc24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển các loại dịch vụ logistics có khả năng cạnh tranh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THƯƠNG MẠI & KINH TẾ QUỐC TẾ -------***------- ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ THƯƠNG MẠI Đề tài: Phát triển các loại dịch vụ logistics có khả năng cạnh tranh ở Việt Nam Giảng Viên hưỡng dẫn: GS.TS Đặng Đình Đào Hà Nội T10/2008 LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, thuật ngữ logistics được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế như một ngành mang lại nhiều nguồn lợi to lớn. Nhưng nhìn chung Logistics là dịch vụ có cái tên mới mẻ đối với nhiều người Việt Nam nhưng có một vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất - kinh doanh của một ngành và cả nền kinh tế. Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP. Ước tính GDP nước ta năm 2006 khoảng 57,5 tỷ USD. Như vậy, chi phí logistics chiếm khoảng 8,6-11,1 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn. Nếu chỉ tính riêng khâu quan trọng nhất trong logistics là vận tải, chiếm từ 40-60% chi phí thì cũng đã là một thị trường dịch vụ khổng lồ. Hiện nay với doanh số lên đến con số tỉ USD, dịch vụ logistics đang hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và thực tế họ đang kinh doanh rất sôi động tại Việt Nam. Hầu hết các tập đoàn logistics lớn trên thế giới đã có mặt tại nước ta và theo cam kết gia nhập WTO, các công ty logistics 100% vốn nước ngoài sẽ được phép hoạt động tại Việt Nam. Trong nhiều năm qua, ngành dịch vụ logistics đã được Chính phủ bảo hộ thông qua các biện pháp ngăn chặn doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận thị trường trong nước. Nhưng nay sau khi gia nhập WTO, các biện pháp bảo hộ buộc phải chấm dứt. Trong tình hình như vậy, nghành logistics phải tự mình tạo ra khả năng cạnh tranh cao. Chính vì thế em chọn đề tài “Phát triển các loại dịch vụ logistics có khả năng cạnh tranh ở Việt Nam” để tìm hiểu thêm về tình hình cạnh tranh các loại dịch vụ logistics ở Việt Nam và tìm ra giải pháp cạnh tranh tối ưu nhất. Chương I: Khái quát về dịch vụ logistics I - Sự ra đời và phát triển của logistics 1- Khái niệm về logistics Bước vào thế kỷ XX, sản xuất vật chất của xã hội đã đạt được năng suất lao đọng cao nhờ áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến và đặc biệt là những thành tựu mới trong công nghệ thông tin song muốn tối ưu hóa qua trình sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, chỉ còn cách cải tiến và hoàg thiện hệ thống quản lý phân phối vật chất để giảm tới mức thấp nhất thiệt hại do tồn kho, ứ đọng nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm trong quá trình sản xuất và lưu thông. Hệ thống phân phối vật chất này còn gọi là "logistics". Vậy lgistics là gì? Về mặt lịch sử, thuật ngữ "logistics" là một thuật ngữ quân sự đã có từ mấy trăm năm nay, thuật ngữ này đầu tiên được sử dụng trong quân đội và mang nghĩa là "hậu cần" hoặc "tiếp vận". Tướng Chauncey B.Baker, tác giả cuốn "Transportation of Troóp and Merterial" nhà sản xuất bản Hudson thành phố Kansas có viết: "Một nhánh trong nghệ thuật chiến đấu có liên quan đến việc di chuyển và cung cấp lương thực, trang thiết bị cho quân đội được gọi là "logistics". Trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng quân đội của các nước tham gia đều sử dụng phương thức logistics rất hiệu quả, đảm bảo hậu cần đúng nơi, đúng lúc cho lực lượng chiến đấu. Thuật ngữ này đến nay vẫn được tiếp túc sử dụng rộng rãi trong quân đội và các ứng dụng dạng quân đội. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, nhiều thập kỷ qua, logistics được nghiên cứu sâu và áp dụng sang các lĩnh vực khác như sản xuất, kinh doanh. Thuật ngữ logistics ngày nay còn được hiểu với nghĩa quản lý (Management) hệ thống phân phối vật chất của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong xã hội. Nhưng cho đến nay trên thế giới chưa có một định nghĩa nào đầy đủ về logistics hay hệ thống logistics. Khái niệm về logistics được đưa ra tuỳ theo giác độ mà người ta nghiên cứu no. Sau đây là một số khái niệm về logistics: * Theo hội đồng quản trị logistics Mỹ - 1988: Logistics là quá trình lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thoả mãn những yêu cầu của khách hàng. * Theo tác giả Donald J.Bowersox - CLM Proceeding - 1987: Logistics là một nguyên lý đơn lẻ nhằm hướng dẫn quá trình lên kế hoạch, định vị và kiểm soát các nguồn nhân lực và tài lực có liên quan tới hoạt động phân phối vật chất, hỗ trợ sản xuất và hoạt động mua hàng. * Logistics được uỷ ban quản lý logistics của Mỹ định nghĩa như sau: Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý,kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hoá đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. * Theo khái niệm của liên hiệp quốc được sử dụng cho khoá đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và quản lý logistics tổ chức tại ĐH ngoại thương Hà Nội tháng 10/2002 thì: Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng thoe yêu cầu của khách hàng… * Luật thương mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra khái niệm “logistics” mà đưa ra khái niệm “dịch vụ logistics” như sau: Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vẩn chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao (Điều 233 - Luật thương mại Việt Nam năm 2005). Qua các khái niệm trên đây, chúng ta thấy cho dù có sự khác nhau về ngôn từ diễn đạt, cách trình bày nhưng trong nội dung tất cả các tác giả đều cho rằng logistics chính là hoạt động quản lý dòng lưu chuyển của nguyên vật liệu từ khâu mua sắm qua quá trình lưu kho, sản xuất ra sản phẩm và phân phối tới tay người tiêu dùng. Mục đích giảm tối đa chi phí phát sinh hoặc sẽ phát sinh với một thời gian ngắn nhất trong quá trình vận động của nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như phân phối hàng hoá một cách kịp thời. Tóm lại, theo quan điểm của chúng tôi thì logistics được hiểu như sau: Logistics là nghệ thuật tổ chức sự vận động của hàng hoá, nguyên vật liệu từ khi mua sắm, qua các quá trình lưu kho, sản xuất, phân phối cho đến khi đưa đến tay người tiêu dùng. 2- Sự hình thành và phát triển logistics Thuật ngữ logistics dịch ra tiếng Việt là “hậu cần”, “nghành hậu cần” hay “tiếp vận” hoặc cũng có người dịch là “tổ chức dịch vụ cung ứng” hay “hệ thống phân phối vật chất”… Như đã nói, thuật ngữ này là một thuật ngữ quân sự, dùng trong quân đội. Logistics được coi là việc vận chuỷân và cung cấp lương thực, thực phẩm, trang thiết bị… đúng nơi, đúng lúc khi cần thiết cho lực lượng chiến đấu. Logistics đã giúp quân đội các nước tham chiến gặt hái được những chiến thắng. Điển hình là quân đội hòang gia Pháp ở thế kỷ XVII – XVIII, khi đối đầu với sức mạnh hải quân anh, thuỷ quân hoàng gia Pháp yếu kém rất nhiều, song với sự nỗ lực lớn về công nghiệp và logistics diễn ra trong một thế kỷ, quân đội Pháp đã biết cách biến những điểm yếu của mình thành sức mạnh cho phép họ đóng vai trò chủ chốt trong cuộc chiến tranh độc lập ở Châu Mỹ, ngăn cản những hoạt động động của Anh ở vùng đất này. Pháp trở thành thànhviên quyết định kết thúc cuộc chiến tranh bằng hiệp ước Vecsai (1783) văn bản thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hay thất bại chiến lược của Đức trong cuộc tấn công bằng đường biển vào nước Anh (chiến tranh thế giới lần II) tháng 7/1940, nguyên nhân chính là do thiếu “hậu cần” thích hợp. Ngược lại, cuộc đổ bộ thành công của quân đồng minh vào sự nỗ lực của khâu chuẩn bị hậu cần và qui mô của các phương tiện hậu cần được triển khai. Logistics đã góp phần làm tăng sức mạnh cho c ác nhà quân sự giành được chiến thắng trong chiến tranh, cho nên rất nhiều kỹ năng về logistics đã được nghiên cứu và áp dụng đặc biệt là trong chiến tranh thế giới lần II. Xuất phát từ bản chất ưu việt của logistics, sau khi chiến tranh thế giới lần II kết thúc, các chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng logistics của họ trong hoạt động kinh tế thời hậu chiến đáp ứng nhiệm vụ thực tế là tái thiết đất nước sau chiến tranh (đối với các nước Châu Âu) hay trợ giúp tái thiết (đối với nước Mỹ). Như vậy logistics trong doanh nghiệp được áp dụng sau khi chiến tranh thế giới lần II kết thúc. Ngày nay thuật ngữ “logistics” đã được phát triển, mở rộng và được hiểu với nghĩa là quản lý “management”. Trong khi nghiên cứu lĩnh vực này, tuỳ thuộc giác độ tiếp cận các học giả có thể sử dụng các thuật ngữ như: Logistics kinh doanh; phân phối vật chất; quản lý nguyên vật liệu, kỹ thuật phân phối hay quản lý logistics thì đây đều là các thuật ngữ dùng để diễn tả cùng một chủ đề, đó chính là cái mà chúng ta gọi là logistics. Logistics diễn tả toàn bộ quá trình vận động của nguyên vật liệu và sản phẩm đi vào – qua và đi ra khỏi doanh nghiệp tới khâu phân phối tới tay người tiêu dùng. Từ những năm 50 của thế kỷ XX đến nay, công nghiệp và thương mại thế giới trải qua những biến đổi sâu sắc từ nền kinh tế dựa trên cơ sở sản xuất hàng loạt, dòi hỏi một lượng hàng lớn đồng nhất sang nền khinh tế mà tính độc đáo và đa dạng của hàng hoá được nhấn mạnh. Trong buôn bán, người bán không nhất thiết là người sản xuất, người mua cũng chưa chắc đã phải là người tiêu dùng cuối cùng. Qúa trình hàng hoá từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng có thể qua nhiều người trung gian lần lượt đóng vai trò là người bán hay người mua và là một bộ phận của toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá. Tính chất phong phú của hàng hoá cùng với sự vận động phức tạp của chúng đòi hỏi phải có một sự quản lý chặt chẽ, điều này đã đặt ra cho các nhà sản xuất kinh doanh một yêu cầu mới. Đồng thời để tránh đọng vốn, các nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách duy trì một lượng hàng tồn kho nhỏ nhất. Từ những lý do trên yêu cầu hoạt động vận tải giao nhận nói riêng và lưu thông phân phối nói chung phải đảm bảo cho nguyên vật liệu hàng hoá được cung ứng kịp thời, đúng lúc mặt khác phải tăng cường vận chuyển với mục tiêu không để hàng trong kho nhằm giảm tối đa chi phí phát sinh hoặc sẽ phát sinh trong sản xuất và lưu thông – logistics trong doanh nghiệp đã ra đời. Theo Jacques Colin – giáo sư về khoa học quản lý thuộc trường ĐH Aix – Marseille II, giám đốc trung tâm nghiên cứu về vận tải và logistics thì sự ra đời và phát triển logistics trong doanh nghiệp qua các thời kỳ như sau: + Gia đoạn những năm 50 và 60 của thế kỷ xx: Đây là giai đoạn thử nghiệm, các chuyên gia logistics trong quân đội đã phục viên thử áp dụng các kỹ năng logistics của mình để giải quyết những vấn đề gặp phải trong doanh nghiệp. Giai đoạn thử nghiệm này được bắt đầu từ việc nghiên cứu các tác nghiệp và những kỹ thuật tối ưu hoá ứng dụng để giải quyết những vấn đề trong chuyên chở và kho hàng… + Giai đoạn những năm 70 của thế kỷ XX: Đây là thời kỳ khởi động logistics trong doanh nghiệp. Trong thời kỳ này, logistics trước hết là nghiên cứu việc tối ưu hoá các bộ phận tách biệt (quản lý kho bãi, quản lý hàng tồn kho, luân chuyển giao hàng…) và hợp lý hoá cơ cấu của doanh nghiệp. Nghiên cứu hiệu quả của việc giảm các chi phí hoạt động và người lao động, chuyển dần những hoạt động này sang cho những người chuyên chở và cung cấp dịch vụ. Sự tìm kiếm tính liên tục trong vận hành doanh nghiệp là đặc điểm chính của logistics sản xuất ở thời kỳ này. + Giai đoạn những năm 80 đến 90 của thế kỷ XX: Giai đoạn này là giai đoạn phát triển của logistics. Đây là giai đoạn logistics hường vào việc phối hợp các bộ phận chịu trách nhiệm lưư chuyển các luồng hàng trong doanh nghiệp, xoá bỏ sự ngăn cách giữa các bộ phận đó. Mối quan tâm của những người điều hành các luồng luân chuyển này tập trung vào khâu lưu thông hàng hóa. Cụ thể tăng cường quản lý các chi phí trong lưu thông, giảm hàng lưu kho, đẩy mạnh vận chuyển giữa các vùng sản xuất và phân phối. Dịch vụ logistics đã làm ổn định và đảm bảo tính hiệu liên tục cua các luồng luân chuyển hàng hóa. + Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX: Thời kỳ logistics được phát triển cả bề sâu lẫn bề rộng, huy động toàn bộ các nguồn lực bên ngoài doanh nghiệp (nguồn lực của các đối tác) để xâu dựng hệ thống logistics phức tạp, đa chủ hể có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc qua lại lẫn nhau. Hệ thống này cho phép thực hiện nhiều giao dịch dẫn đến sự hoà nhập của các chủ thể vào cùng một tiến trình hoạt động của doanh nghiệp. Tóm lại, theo Jacques Colin thì sự phát triển của logistics bắt đầu từ tác nghiệp (khoa học chi tiết) đến liên kết (khoa học tổng hợp) được khẳng định trong lĩnh vực quân sự cũng như trong doanh nghiệp. Nghiên cứu các giai đoạn phát triển của logistics, uỷ ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái bình dương (Economic and Social Commission for Asia and Pacific – ESCAP) của liên hiệp quốc lại chia thành 3 giai đoạn như sau: + Giai đoạn 1: Phân phối vật chất Vào những năm 60,70 của thế kỷ XX, người ta quan tâm tới việc quản lý có hệ thống những hoạt động có liên quan với nhau để đảm bảo hiệu quả việc giao hàng, thành phẩm… cho khách hàng. Những hoạt động đó là: Vận tải, phân phối, bảo quản, định mức tồn kho, bao bì đóng gói, di chuyển nguyên vật liệu… Những hoạt động này gọi là phân phối vật chất hay logistics đầu vào. + Giai đoạn 2: Hệ thống logistics Thời kỳ này khoảng những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, các công ty kết hơp chặt chẽ sự quản lý giữa hai mặt, đầu vào và đầu ra để giảm tối đa chi phí cũng như tiết kiệm chi phí. Như vậy sự kết hợp chặt chẽ giữa cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất với phân phối sản phẩm tới tay người tiêu dùng đã đảm bảo sự ổn định và tính liên tục của các luồng vẩn chuyển, sự kết hợp này được mô tả là hệ thống logistics. + Giai đoạn 3: Quản lý dây chuyền cung cấp Giai đoạn này diễn ra từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay. Quản lý dây chuyền cung cấp – đây là khái niệm có tính chiến lược về quản lý dãy nối tiếp các hoạt động từ người cung ứng - đến người sản xuất - đến khách hàng cùng với các dịch vụ làm tăng thêm giá trị sản phẩm như cung cấp chứng từ liên quan, theo dõi, đối tác, kết hợp giữa doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với người cũng ứng, khách hàng cũng như những người liên quan tới hệ thống quản lý như công ty vận tải, lưu kho và những người cung cấp công nghệ thông tin. ESCAP cũng định nghĩa quản lý dây chuyền cung ứng và logistics là “khái niệm đồng bộ hoá nhưng hoạt động của nhiều tổ chức trong dây chuyền logistics và phản ánh trở lại những thông tin cần thiết đúng thời gian, bằng cách sử dụng mạng lưới công nghệ thong tin và truyền thông kỹ thuật số”. Như vậy logistics được phát triển từ việc áp dụng các kỹ năng “tiếp vân”, “hậu cần” trong quân đội để giải quyết những vấn đề phát sinh của thực tế sản xuất – kinh doanh và đến nay được hoàn thiện trở thành hệ thống quản lý mang lại hiệu quả kinh tế cao. II – Tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của các lo¹i dịch vụ logistics Ph©n lo¹i c¸c dÞch vô logistics DÞch vô logistics theo qui ®Þnh t¹i ®iÒu 133. LuËt th­¬ng m¹i n¨m 2005 ®­îc ph©n lo¹i nh­ sau: C¸c dÞch vô logistics chñ yÕu bao gåm: DÞch vô bèc xÕp hµng ho¸, bao gåm c¶ ho¹t ®éng bèc xÕp container. DÞch vô kho b·i vµ l­u gi÷ hµng hãa, bao gåm c¶ ho¹t ®éng kinh doanh kho b·I container vµ xö lý nguyªn liÖu, thiÕt bÞ. DÞch vô ®¹i lý vËn t¶i, bao gåm c¶ ho¹t ®éng ®¹i lý lµm thñ tôc h¶i quan vµ lËp kÕ ho¹ch bèc dì hµng ho¸. DÞch vô bæ trî kh¸c, bao gåm c¶ ho¹t ®éng tiÕp nhËn, l­u kho vµ qu¶n lý th«ng tin liªn quan ®Õn vËn chuyÓn vµ l­u kho hµng ho¸ trong suèt c¶ chuçi logisitcs. Ho¹t ®éng xö lý l¹i hµng ho¸ kh¸ch hµng tr¶ l¹i, hµng ho¸ tån kho, hµng ho¸ qu¸ h¹n, lçi mèt vµ t¸i ph©n phèi hµng ho¸ ®ã. Ho¹t ®éng cho thªu vµ thuª mua container. C¸c dÞch vô logistics liªn quan ®Õn vËn t¶i, bao gåm: DÞch vô vËn t¶i hµng h¶i. DÞch vô vËn t¶i thuû néi ®Þa. DÞch vô vËn t¶i hµng kh«ng. DÞch vô vËn t¶i ®­êng s¾t. DÞch vô vËn t¶i ®­êng bé. DÞch vô vËn t¶i ®­êng èng. C¸c dÞch vô logistics lªn quan kh¸c, bao gåm: DÞch vô kiÓm tra vµ ph©n tÝch kü thuËt. DÞch vô b­u chÝnh. DÞch vô th­¬ng m¹i b¸n bu«n. DÞch vô th­¬ng m¹i b¸n lÎ, bao gåm c¶ ho¹t ®éng qu¶n lý hµng l­u kho, thu gom, tËp hîp, ph©n lo¹i hµng ho¸, ph©n phèi l¹i giao hµng. DÞch vô hç trî vËn t¶i kh¸c. Nh÷ng tiªu chÝ ®¸nh gi¸ n¨ng lùc c¹nh tranh cña c¸c lo¹i dÞch vô logistics Gi¸ phÝ Gi¸ lµ yÕu tè mạnh mẽ mµ c¸c doanh nghiÖp th­êng sö dông ®Ó c¹nh tranh, ®Ó cã gi¸ thÊp nhµ qu¶n lý ph¶i t×m mäi c¸ch ®Ó c¸ch gi¶m chi phÝ, ®Æc biÖt trong nghµnh logistics lµ gi¶m chi phÝ ®Ó s¶n xuÊt ra s¶n phÈm dÞch vô. Giá còn phụ thuộc vào từng loại dịch vụ logistics, như dịch vụ vận tải hàng không sẽ có giá rất cao so với dịch vụ vận tải đường sắt và đường bộ… vì thế cần áp dụng phù hợp cho từng loại hàng hoá cần vận chuyển. Nhưng nhìn chung ở Việt Nam chuỗi cung ứng và hạ tầng logistics còn yếu kém tiếp tục làm cho chi phí của dịch vụ này cao lên dẫn đến tăng giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, khó cạnh tranh và làm ảnh hưởng đến sự phát triển cũng như hiệu quả của dịch vụ logistics. Điều này được các chuyên gia, các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong ngành phản ánh tại triển lãm và hội nghị "Cung cấp giải pháp quản trị chuỗi cung ứng và logistics 2010" diễn ra tại TPHCM ngày hôm nay 29-7. Theo các chuyên gia, hệ thống giao thông vận tải là cơ sở hạ tầng quan trọng trong việc phát triển dịch vụ logistics. Thế nhưng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam còn yếu kém, kể cả đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường sông và đường biển. Điều này đã làm cho chi phí của dịch vụ logistics cao lên, làm ảnh hưởng đến sự phát triển cũng như hiệu quả của dịch vụ logistics ở Việt Nam. Là một trong những nhà cung cấp dịch vụ logistics tại Việt Nam, ông Narin Phol, đại diện Damco cho rằng chi phí dịch vụ logistics của Việt Nam quá cao, kém cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Ông cho biết chi phí dịch vụ này của Việt Nam cao hơn cả Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia... Vị trí đặt quảng cáo Đồng tình với quan điểm này, ông Michael de Jong-Douglas, thuộc Công ty Mapletre Logistics, cho rằng so với khu vực, thị trường logistics của Việt Nam chỉ vượt qua Lào và Campuchia. Ngoài ra, các dịch vụ logistics khác ngoài vận tải biển ở Việt Nam cũng đắt đỏ (kẹt đường, kẹt cầu, thời gian vận chuyển đường bộ cao và chi phí vận chuyển cũng cao), đã làm chi phí logistics của Việt Nam cao so với nhiều nước, trở thành gánh nặng cho các doanh nghiệp và giao thương hàng hóa. Theo ông Narin Phol, ở các nước phát triển, chi phí về logistics rất thấp, như ở Mỹ chi phí logistic bằng 7,7% GDP, Singapore là 8%, Nhật là 11%, Indonesia và Malaysia là 13%, Trung Quốc 18%, trong khi Việt Nam lên tới 25% GPD. Theo các chuyên gia, xuất-nhập khẩu cao thể hiện tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Mặt khác, Việt Nam cũng đang trở thành thị trường bán lẻ lớn. Do đó, vấn đề phát triển hạ tầng, chuỗi cung ứng, logistics là điều cấp bách. Theo ông Michael de Jong-Douglas, với những yếu kém trên thì Việt Nam sẽ trở thành điểm đầu tư tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực logistics. Vì vậy ở Việt Nam tuy giá phí các loại dịch vụ logistics còn cao song lại có nhiều tiềm năng để phát triển và giảm chi phí dịch vụ logistics để có thể cạnh tranh trên thị trường
Tài liệu liên quan