Vốn đầu tưnước ngoài đặc biệt là vốn FDI có vai trò hết sức to lớn trong quá trình phát triển
kinh tếcủa nước ta nói chung và các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộnói riêng. Đểgóp phần thu
hút và nâng cao hiệu quảsửdụng nguồn vốn này vào sựphát triển kinh tếcủa khu vực, bài
viết này, tập trung đánh giá tầm quan trọng của vốn đầu tưnước ngoài với sựphát triển kinh
tế ởcác tỉnh này; tình hình phát triển các loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp phụtrợvà ảnh
hưởng từsựphát triển này đối với thu hút và hiệu quảsửdụng FDI, từ đó sẽ đưa ra các giải
pháp chủyếu để đạt được các mục tiêu này.
7 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phát triển các loại hình dịch vụ và các doanh nghiệp phụ trợ nhằm đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quảsửdụng đầu tưnước ngoài tại duyên hải nam trung bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÌNH DỊCH VỤ VÀ CÁC DOANH
NGHIỆP PHỤ TRỢ NHẰM ĐẨY MẠNH THU HÚT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
DEVELOPING SERVICES TYPES AND SUPPORTING ENTERPRISES TO
INCREASE ATTRACTION AND EFFECTIVENESS OF THE FDI USE IN
SOUTHERN CENTRAL COAST OF VIETNAM
TRƯƠNG BÁ THANH
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn FDI có vai trò hết sức to lớn trong quá trình phát triển
kinh tế của nước ta nói chung và các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ nói riêng. Để góp phần thu
hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này vào sự phát triển kinh tế của khu vực, bài
viết này, tập trung đánh giá tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài với sự phát triển kinh
tế ở các tỉnh này; tình hình phát triển các loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp phụ trợ và ảnh
hưởng từ sự phát triển này đối với thu hút và hiệu quả sử dụng FDI, từ đó sẽ đưa ra các giải
pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu này.
ABSTRACT
Foreign capital, especially FDI, plays extremely important roles in the development of our
country in general and provinces in Southern Central Coast of Vietnam in particular. As a
contribution to increasing the attraction and efficiency in using FDI for economic development,
this research paper focuses on evaluating FDI in the economic development, services
development, supporting enterprises and their effects on the attraction and effectiveness of
using FDI. On this basis, we suggest some key solutions to get the intended aims.
1. Sự phát triển của kinh tế khu vục Duyên hải Nam Trung bộ
Khu vực Duyên hải Nam Trung bộ (DHNTB) bao gồm Thành phố Đà Nẵng và 5 tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, có vị trí địa lý nằm dọc theo bờ biển miền Trung
Việt Nam với chiều dài bờ biển khoảng hơn 700 km. Chính vị trí địa lý đặc biệt này làm mang đến cho
khu vực này những tiềm năng kinh tế biển to lớn như du lịch sinh thái, nuôi trồng khai thác thủy sản,
cảng biển... Ở đây còn là nơi có 2 di sản văn hóa của thế giới là Hội An và Mỹ Sơn, lại ở sát ngay di
sản cố đô Huế của Việt Nam.
Với diện tích 33069 km2, dân số 7,05 triệu người (2005) và với mật độ dân số 213 người / km2,
bằng 85% mức trung bình của cả nước(1), nguồn nhân lực ở khu vực này có tỷ lệ biết chữ là 93.67% thứ
3 sau Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ, tỷ lệ lao động tốt nghiệp đại học cao đẳng là 3.58% chỉ
sau khu vực Đồng bằng sông Hồng là 5.26% Lao động đã qua đào tạo chuyên môn ở khu vực này là
32%. Đáng chú ý là mức đầu tư vào phát triển vốn con người của khu vực này là rất cao, bình quân mỗi
năm người dân ở đây chi cho giáo dục là 642 ngàn đồng/người (2).
Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế của khu vực Duyên hải Nam Trung bộ:
2000 2001 2002 2003 2004 2005
GDP- giá so sánh 1994 (tỷ đổng) 18409.3 20043.5 22151.4 24575.5 27324.7 30730
-% tăng trưởng 8.9 10.5 10.9 11.2 12.5
-GDP/ng (Tr. đ) 2.78 3.00 3.26 3.56 3.92 4.36
Cơ cấu ngành (%)
-NN, Lâm nghiệp và Ngư nghiệp 33.5 31.9 30.6 29.1 27.7 24.9
-Công nghiệp và Xây dựng 28.1 29.3 30.2 31.9 33.5 35.7
-Dịch Vụ 38.4 38.9 39.2 39.0 38.9 39.4
(Nguồn: Tổng hợp số liệu thống kê của các tỉnh thành Duyên hải Nam Trung bộ từ
www.chinhphu.vn)
Trong thời kỳ 2000-2005, nhịp độ phát triển kinh tế trung bình của các tỉnh trong khu vực được
duy trì với tốc độ 10.8%. Nếu năm 2000 GDP đầu người bình quân của khu vực là 2.7 triệu đồng (giá
năm 1994) thì năm 2005 đã đạt 4.36 triệu đồng (giá 1994), nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình của cả
nước. Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, nếu năm 2000 tỷ trọng của nông
nghiệp trong GDP là 33.5% thì năm 2005 chỉ còn chiếm 24.9%, giảm 8.6% tuy nhiên mức này vẫn cao
hơn mức trung bình của cả nước là 20.9%. Cũng trong thời kỳ đó tỷ trọng của công nghiệp là 28.1% và
35.7%, còn dịch vụ là 38.4% và 39.4% (3). Lực lượng lao động chiếm 52% dân số, trong đó lao động
nông nghiệp chiếm 71.5% trong khi tỷ lệ này của cả nước là 57%, tỷ lệ thời gian lao động được sử
dụng ở nông thôn là 77.81 % (4) (như vậy nếu quy đổi sẽ có khoảng hơn nửa triệu người lao động ở
nông thôn thiếu việc làm). Rõ ràng cơ cấu ngành kinh tế của khu vực so với cơ cấu của cả nước vẫn
còn lạc hậu hơn đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và mạnh mẽ hơn.
Vai trò của các nhân tố tăng trưởng đối với sự phát triển kinh tế của các tỉnh này rất lớn, tỷ lệ
đóng góp vào tăng trưởng của vốn K, lao động L và các nhân tố năng suất tổng hợp TFP lần lựợt là
41.5%, 34.5% và 24.2%(5). Mức đóng góp của các nhân tố này của cả nước trong giai đoạn 1998-2003
lần lượt là 57.1%, 20.6% và 22.2% (5). Có sự khác biệt về vai trò của các nhân tố tăng trưởng, ở các
tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ lao động có vai trò lớn hơn, vốn có vai trò không lớn bằng so với cả
nước, yếu tố TFP cao hơn một chút, để phát triển cần cả hai yêu tố là vốn, và tập trung vào tăng được
tỷ trọng của TFP.
Sự phát triển kinh tế của các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ đòi phải thực hiện việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế mạnh mẽ hơn theo hướng công nghiệp hóa và hội nhập. Trong việc chuyển dịch cơ cấu
thì cần lựa chọn phát triển những lĩnh vực nào cho phép khai thác tiềm năng và tạo ra sự thay đổi về
chất cho sự phát triển.
2. Tình hình đầu tư nước ngoài và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài ở các tỉnh Duyên hải
Nam Trung bộ
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài
Tính từ thời điểm năm 1988 đến 31/ 12/2005 tổng số dự án đầu tư nước ngoài đăng ký đầu tư
vào các tỉnh trong khu vực còn có hiệu lực là 233 dự án với tổng số vốn đăng ký là 1.445 tỷ USD bằng
5.6% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bình quân số vốn đầu tư cho một dự án là 6.2 triệu
USD. Tỷ lệ số vốn thực hiện so với số vốn đăng ký là 43.4%. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài với các
dự án còn có hiệu lực và thực hiện tại các địa phương trong bảng dưới đây.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo địa phương 1988-2005 (7)
(Tính tới ngày 31/12/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Địa phương
Số dự
án TVĐT (USD)
Vốn pháp định
(USD)
Vốn đầu tư thực
hiện (USD) % Thực hiện/TVĐT
Đà Nẵng 75 482854835 219525635 164248424 34.0
Khánh Hòa 62 401736082 147834878 305043261 75.9
Phú Yên 34 247906313 118118655 68142280 27.5
Quảng Nam 37 235155071 104637233 56952413 24.2
Bình Định 16 39212000 20767000 20805000 53.1
Quảng Ngãi 9 38463689 17430000 12816032 33.3
Tổng số 233 1.445.327.990 628.313.401 628.007.410 43.4
Trong khu vực tổng số vốn và dự án xếp theo thứ tự Thành phố Đà Nẵng dẫn đầu và cuối cùng
là tỉnh Quảng Ngãi, số các dự án và số vốn phân bố chủ yếu ở Đà Nẵng và Khánh Hòa. Cho dù Quảng
Nam và Quảng Ngãi có 2 khu kinh tế được chính phủ ưu đãi nhiều nhưng số vốn của dự án có hiệu lực
không nhiều. Tỷ trọng vốn đăng ký và thực hiện chỉ là 43.4% so với mức thực hiện của cả nước là
54.8%. Điều đó chứng tỏ tiến độ đầu tư của các nhà đầu tư rất chậm.
Lựa chọn của các nhà đầu tư phần lớn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với
64.4% tổng số vốn đầu tư vào khu vực, trong khi chỉ có 19.2% đầu tư vào nông nghiệp và 16.4% đầu
tư vào lĩnh vực dịch vụ (6). Việc đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phụ trợ là không nhiều, phần này sẽ
được xem xét ở dưới. Có lẽ chính những hạn chế bởi việc chưa mở cửa thị trường dịch vụ đã giới hạn
dòng vốn vào lĩnh vực dịch vụ, nhưng cơ cấu này sẽ thay đổi lớn trong những năm tới khi chúng ta mở
cửa thị trường dịch vụ theo tiến trình gia nhập WTO.
Hiệu quả sử dụng đầu tư nước ngoài với nền kinh tế các tỉnh DHNTB
Vốn FDI có ảnh hưởng lớn tới GDP ở các tỉnh này. Thông qua mối quan hệ giữa GDP/ng và số
vốn FDI thực hiện/ng qua đồ thị dưới cho thấy Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa có bình quân
FDI/ ng cao nên GDP/người cũng cao, nhưng nếu so với Đồng Nai và Hà nội thì kém hơn. Điều đó có
nghĩa là FDI đóng góp đáng kể vào việc nâng cao thu nhập bình quân. Với hệ số co dãn giữa GDP/ng
và FDI/ng của khu vực Duyên hải Nam Trung bộ là 0.0157, thì 10% tăng lên vốn FDI thực hiện sẽ làm
GDP/ng tăng 1.57%.
Hình 1 Mối quan hệ giữa GDP/ng và vồn FDI/ng
Hà Nội
Đồng nai
Quảng Ngãi
Bình ĐịnhQuảng NamPhú Yên
Khánh Hòa
Đà Nẵng
Khu vực
0
2
4
6
8
10
12
0 500 1000 1500 2000
Vôn FDI/ng (USD/ng)
G
D
P/
ng
(T
r.
đ)
(Nguồn: xử lý từ số liệu Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, www.mpi.gov.vn và
Tổng hợp số liệu thống kê của các tỉnh, thành Duyên hải Nam Trung bộ từ www.chinhphu.vn)
Với việc đầu tư tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng tới 64.4% như phần trên nói
tới đã thúc đẩy quá trình CNH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đây.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao kinh ngạch xuất khẩu cho các tỉnh trong
khu vực này bắt đầu từ năm 1995 khi làn sóng đầu tư tràn vào nước ta trong đó có khu vực Duyên hải
Nam Trung bộ. Giai đoạn 1995-2005 tỷ lệ Giá trị xuất khẩu/giá trị vốn FDI thực hiện là 0.68 thì tỷ lệ
này với khu vực dầu tư trong nước chỉ là 0.451. Năm 1995 1 USD vốn thực hiện tạo ra 0,18 USD giá
trị hàng hóa xuất khẩu thì năm 2003 con số này là 2.86USD(8).
y = . 157x + 3.1599
R2 = 0.7261
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp một cách đáng kể vào nguồn thu ngân
sách của các địa phương, giai đoạn 1995-2005, cứ 1 USD vốn đầu tư thực hiện ngân sách thu được
0.168USD thấp hơn mức thu được từ khu vực đầu tư trong nước là 0,35 USD (8). Do những ưu đãi
trong chính sách thuế là nguyên nhân, nhưng không thể phủ nhận sự đóng góp của khu vực này.
Tác động tích cực nhất từ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp ngoài là đã tạo ra một lượng
việc làm lớn cho lao động. Giai đoạn 1995-2005, các doanh nghiệp FDI đã thu hút 23.5 ngàn lao động,
tốc độ bình quân là 15.7% năm. Nhưng hệ số chỗ làm/1000 USD của khu vực này là 0,26 của khu vực
trong nước là 4.3(8). Nguyên nhân là công nghệ của các doanh nghiệp FDI cao hơn, khả năng quản trị
tốt hơn nên tiết kiệm lao động hơn.
Tình hình đầu tư vào khu vực trong những năm qua nhìn chung cỏn hạn chế cả về số dự án
cũng như quy mô vốn và lĩnh vực đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư FDI còn thấp thể hiện qua tỷ lệ
vốn thực hiện còn thấp, sự ảnh hưởng của nó với các doanh nghiệp trong nước chưa nhiều. Nguyên
nhân là các điều kiện môi trường kinh doanh chưa thuận lợi như hệ thống hoạt động dịch vụ chưa đáp
ứng yêu cầu, các DNPT còn quá ít...
3. Mối quan hệ giữa sự phát triển của các loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp phụ trợ và việc thu
hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài ở DHMT
Với hoạt động dịch vụ
Sự phát triển hoạt động dịch vụ trước hết thể hiện qua số lượng các sản phẩm dịch vụ tăng
nhanh từ tài chính ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính, viễn thông, vận tải, du lịch, thương mại, tư vấn tới
văn hóa, giáo dục y tế... Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cũng tăng nhanh và
đa dạng về hình thức sở hữu. Chẳng hạn chỉ riêng lĩnh vực ngân hàng, hầu hết các ngân hàng ở Việt
Nam đều có chi nhánh tại khu vực này. Hoạt động dịch vụ có mức tăng trưởng trung bình 11.1% trong
giai đoạn 2000-2005, nó đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế, mỗi % tăng trưởng dịch vụ đóng góp
tới gần 40% và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế(9).
Phát triển các loại hình dịch vụ tác động mạnh tới việc thu hút và thúc đẩy các các nhà đầu tư
tăng nhanh lượng vốn thực hiện. Trên đồ thị 2 cho thấy những nơi có mức giá trị dịch vụ trên đầu
người cao sẽ có mức vốn đầu tư nước ngoài thực hiện cao hơn. Khi giá trị dịch vụ trên đầu người tăng
1 triệu thì vốn FDI thực hiên/ng tăng 105 USD.
Hình 2 Mối quan hệ giữa FDI/ng và giá trị dịch vụ/ng
Quảng NgãiBình Định
Quảng Nam
Phú Yên
Khánh Hòa
Đà Nẵng
Khu vực
y = 105.03x - 117.73
R2 = 0.7549
-50
0
50
100
150
200
250
300
0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4
Giá trị dịch vụ/ng (tr.đ/ng)
FD
I/
ng
(U
SD
/n
g)
(Nguồn: Xử lý từ số liệu Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, www.mpi.gov.vn và
Tổng hợp số liệu thống kê của các tỉnh thành Duyên hải Nam Trung bộ từ www.chinhphu.vn)
Cho dù khu vực có nguồn nhân lực lớn, có trình độ học vấn khá nhưng các nhà đầu tư cũng
thường phải đối mặt với khó khăn thiếu nhân lực hay phải tự tổ chức đào tạo vì các cơ sở đào tạo chưa
đào tạo những ngành nghề mà doanh nghiệp cần, dịch vụ cung cấp nhân sự cao cấp chưa phát triển
trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp phải đặt hàng với cơ sở dịch vụ này ở Tp HCM. Dịch vụ nhà
ở cho công nhân ở các khu công nghiệp cũng thiếu và kém chất lượng, hầu như các khu công nghiệp
đầu không bố trí đất đai để xây dựng chung cư cho công nhân nên 100% lao động phải tự lo thuê nhà ở
trong các khu dân cư với điều kiện sống rất kém. Ngoài ra, hệ thống dịch vụ ở đây vẫn mang tính tự
phát của từng địa phương, thiếu đi sự phối hợp trong một chiến lược và quy hoạch chung.
Với các doanh nghiệp phụ trợ
Doanh nghiệp phụ trợ (DNPT) là khái niệm chỉ toàn bộ những doanh nghiệp cung cấp sản
phẩm có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ
tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v… và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm
trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Nếu kể các sản phẩm tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu
thêm một đặc tính nữa sẽ thấy phạm vi rõ ràng hơn. Sản phẩm DNPT thường được sản xuất với quy
mô nhỏ và vừa.
Các doanh nghiệp phụ trợ ngoài việc tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, mà
doanh nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công
nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng (broadening) vừa thâm
sâu (deepning). Khi sự phát triển của DNPT kém sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản
xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có
thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo
hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào.
Sự phát triển của DNPT ảnh hưởng tới thu hút FDI, nhất là FDI trong các ngành sản xuất các
loại máy móc, là những ngành đang phát triển mạnh tại Đông Á và là những lĩnh vực Việt Nam có lợi
thế so sánh động. Tỷ lệ của chi phí với sản phẩm của DNPT của ta cao hơn nhiều so với chi phí lao
động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng DNPT không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu
tư kém hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng không phải là CNPT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI. Có nhiều
trường hợp FDI đi trước và lôi kéo các công ty khác (kể cả công ty nước ngoài và công ty bản xứ) đầu
tư phát triển công nghiệp phụ trợ. Do đó, có sự quan hệ hỗ tương giữa FDI và công nghiệp phụ trợ.
Trong thực tế, doanh nghiệp phụ trợ của chúng ta hiện nay quá yếu và còn trong giai đoạn sơ
khai. Cho đến nay doanh nghiệp phụ trợ là doanh nghiệp nhà nước, họ sản xuất, phần lớn cung cấp
những sản phẩm có chất lượng kém và giá thành cao (vì công nghệ lạc hậu, vì quản lý kém,…) nên chỉ
tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước. Một bộ phận khác, chủ yếu là các hộ kinh
doanh cá thể sản xuất và cung cấp những sản phẩm công nghiệp phụ trợ cấp thấp, do họ gặp khó khăn
về vốn và công nghệ. Chẳng hạn các doanh nghiệp dệt và may ở Thành phố Đà Nẵng 80% nguyên liệu
cho sản xuất là nhập khẩu, 20% còn lại do doanh nghiệp trong nứoc cung cấp nhưng trong đó tỷ lệ do
danh nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ chỉ khoảng 5-6%(10). Đối với các doanh nghiệp có vốn FDI với
yêu cầu chất lượng sản phẩm, do tình hình hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp nội địa hiện tại,
cho dù các doanh nghiệp này tuy rất muốn tăng tỷ lệ nội địa hoá để giảm giá thành sản xuất nhưng ít
tìm được nguồn cung cấp công nghiệp phụ trợ đáng tin cậy. Chẳng hạn, hãng Honda đã điều tra hàng
trăm doanh nghiệp nội địa (chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước) sản xuất công nghiệp phụ trợ trong
ngành xe máy, nhưng đến năm 2003 cũng chỉ chọn ra được 13 công ty có khả năng cung cấp công
nghiệp phụ trợ đủ tiêu chuẩn về chất lượng.
4. Giải pháp phát triển
4.1. Các giải phát chung
Trước hết, các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ cần phải thống nhất với nhau một chiến lược và
quy hoạch chung về phát triển các loại hình dịch vụ và doanh nghiệp phụ trợ chung cho cả khu vực trên
cơ sở có sự phân công hợp tác chặt chẽ và căn cứ vào những lợi thế của mỗi địa phương. Trên cơ sở
đó, mỗi địa phương cũng cần tiến hành điều chỉnh chiến lược và quy hoạch riêng của mình cho phù
hợp. Cần thành lập một cơ quan giám sát việc thực hiện, bảo đảm cho những định hướng và mục tiêu
chung không bị phá vỡ.
Thứ hai, cùng với quá trình hoàn thiện hành lang pháp lý của cả nước thì các địa phương trong
khu vực cũng cần hoàn thiện và đơn giản hóa các quy định mang tính pháp lý của riêng mình, và cần
có sự thống nhất chung trong khu vực những quy định có thể để có thể tạo ra môi trường kinh doanh
thông thoáng chung.
Thứ ba, cần phải có sự cải thiện về cơ sở hạ tầng của mỗi địa phương và khu vực. Cần hoàn
thiện những cơ sở hiện có trên cơ sở đó cải thiện chất lượng dịch vụ để có thể tập trung sử dụng những
cơ sở đã có như cảng biển, sân bay... Cần tận dụng sự đầu tư từ trung ương nhưng các địa phương cũng
cần phải thống nhất với nhau để tranh thủ và sử dụng có hiệu quả này và phối hợp với nhau trong việc
xây dựng hạ tầng để bảo đảm tính đồng bộ và khai thác có hiệu quả chẳng hạn tuyến đường ven biển từ
Sơn Trà, Đà Nẵng tới Hội An. Và kéo dài thành tuyến đường chạy dọc bờ biển Duyên hải Nam Trung
bộ.
Thứ tư, phát triển hệ thống cung ứng điện theo kịp tốc độ tăng trưởng và quy mô của các nhà
đầu tư theo hướng đa dạng hoá sản xuất điện và nâng cao chất lượng điện.
Thứ năm, có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn trong đó chìa khoá chính là đội
ngũ nhân lực IT, phần mềm, nhân viên khách sạn nhà hàng hướng dẫn viên du lịch, công nhân kỹ thuật
và các nhà quản trị...
Thứ sáu, kêu gọi FDI đầu tư vào việc sản xuất trong các ngành CNPT và dịch vụ. Cụ thể nên
chỉ định một số khu công nghiệp và khu vực có điều kiện để ưu tiên giải quyết ngay và triệt để các mặt
về hạ tầng, về thủ tục hành chính, về cung cấp nguồn nhân lực cần thiết, v.v… và đặt ra các đội chuyên
trách thường xuyên theo dõi hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài để phát hiện ngay các
vướng mắc và giải quyết ngay.
Thứ bảy, lập chế độ thưởng đặc biệt cho những doanh nghiệp (kể cả nhà nước, tư nhân và công
ty có vốn nước ngoài) có thành tích cao về xuất khẩu các mặt hàng thuộc các ngành công nghiệp phụ
trợ (kể cả thành tích cung cấp cho các công ty nước ngoài đang đầu tư ở Việt nam sản xuất cho xuất
khẩu), các sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao.
4.2. Với doanh nghiệp phụ trợ
Một là, các địa phương cho rà soát lại các cơ sở sản xuất các ngành phụ trợ tại các công ty nhà
nước, ưu tiên cấp vốn và tạo các điều kiện khác để đổi mới thiết bị, thay đổi công nghệ tại những cơ sở
đã có quy mô tương đối lớn. Lập chế độ tư vấn kỹ thuật và quản lý để mời các chuyên gia nước ngoài
vào giúp thay đổi công nghệ và cơ chế quản lý tại từng doanh nghiệp nhà nước vừa nói. Hiện nay, Nhật
Bản và một số nước khác đang có chế độ gửi những người đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn sức khoẻ và
ý chí muốn đem kinh nghiệm của mình đến giúp các nước đang phát triển. Các địa phương có thể tận
dụng nguồn lực quốc tế này để nhanh chóng tăng sức cạnh tranh của các DNPT.
Thứ hai, các địa phương cũng có thể lựa chọn tập trung phát triển các doanh nghiệp phụ trợ
làm vệ tinh phục vụ cho các doanh nghiệp FDI. Quá trình thực hiện phải gắn liền với quá trình xúc tiến
kêu gọi đầu tư nước ngoài và phân công lao động theo ngành và theo vùng lãnh thổ.
Thứ ba, đặc biệt khuyến khích tư nhân đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ, với sự hỗ trợ
đặc biệt về vốn, và những ưu đãi đặc biệt về thuế (miễn thuế nhập khẩu thiết bị và công nghệ, miễn
thuế doanh thu, v.v…). Đưa ra chính sách ưu đãi đặc biệt và chỉ áp dụng có thời hạn (chẳng hạn trong
3-4 năm).
Thứ tư, tận dụng c