Nông nghiệp nông thôn Việt Nam đã có bước phát triển không ngừng trong thời kì đổi mới.ĐH IX của Đảng đã đánh giá: "Kinh tế tăng trưởng khá.Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục đặc biệt là sản xuất lương thực.Việc nuôi trồng và khai thác thủy sản, hải sản được mở rộng".Sự thắng lợi của nền nông nghiệp VN bắt nguồn từ cơ chế giải phóng sức lao động của người nông dân như "khoán 10 ", tổ chức lại HTX nông nghiệp, khuyến khích nông thôn làm giàu bằng mọi hình thức tổ chức sản xuất, mới nhất là kinh tế trang trại.
Như vậy từ các điền trang thái ấp xuất hiện trong thời Lí- Trần đến các đồn điền thời Lê, thời Nguyễn và thời Pháp thuộc, các ấp trại và các nông lâm trường quốc danh của VNDCCH, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp từ đầu thập kỉ 60 đến cuối thập kỉ 80, các hộ kinh tế tiểu nông, đến nay kinh tế trang trại đang giữ vị trí quan trọng trong thời kì CNH- HĐH nền nông nghiệp nước ta
Khi bàn đến "những yếu tố trực tiếp tác động đến phát triển nông nghiệp và nông thôn", viện chiến lược phát triển (Bộ kế hoạch và đầu tư ) nhận định:" Trong thời gian gần đây yếu tố kinh tế trang trại đã thúc đẩy tăng trưởng một số sản phẩm nông nghiệp ; thể hiện xu thế hiện đại hóa phát triển nông nghiệp".Mục tiêu của cách mạng Việt Nam thời gian tới là thực hiện chiến lược kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010, "chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế , cơ cấu lao động theo hướng CNH- HĐH". Chính vì vậy phát triển kinh tế trang trại là một yêu cầu không thể thiếu trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước ta.
Trên cơ sở những lí do trên đã hướng chúng tôi tập trung tìm hiểu
"Phát triển kinh tế trang trại ở nông thôn Việt Nam".
30 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3539 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế trang trại ở nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển kinh tế trang trại ở nông thôn Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp nông thôn Việt Nam đã có bước phát triển không ngừng trong thời kì đổi mới.ĐH IX của Đảng đã đánh giá: "Kinh tế tăng trưởng khá.Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục đặc biệt là sản xuất lương thực.Việc nuôi trồng và khai thác thủy sản, hải sản được mở rộng".Sự thắng lợi của nền nông nghiệp VN bắt nguồn từ cơ chế giải phóng sức lao động của người nông dân như "khoán 10 ", tổ chức lại HTX nông nghiệp, khuyến khích nông thôn làm giàu bằng mọi hình thức tổ chức sản xuất, mới nhất là kinh tế trang trại.
Như vậy từ các điền trang thái ấp xuất hiện trong thời Lí- Trần đến các đồn điền thời Lê, thời Nguyễn và thời Pháp thuộc, các ấp trại và các nông lâm trường quốc danh của VNDCCH, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp từ đầu thập kỉ 60 đến cuối thập kỉ 80, các hộ kinh tế tiểu nông, đến nay kinh tế trang trại đang giữ vị trí quan trọng trong thời kì CNH- HĐH nền nông nghiệp nước ta
Khi bàn đến "những yếu tố trực tiếp tác động đến phát triển nông nghiệp và nông thôn", viện chiến lược phát triển (Bộ kế hoạch và đầu tư ) nhận định:" Trong thời gian gần đây yếu tố kinh tế trang trại đã thúc đẩy tăng trưởng một số sản phẩm nông nghiệp ; thể hiện xu thế hiện đại hóa phát triển nông nghiệp".Mục tiêu của cách mạng Việt Nam thời gian tới là thực hiện chiến lược kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010, "chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế , cơ cấu lao động theo hướng CNH- HĐH". Chính vì vậy phát triển kinh tế trang trại là một yêu cầu không thể thiếu trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước ta.
Trên cơ sở những lí do trên đã hướng chúng tôi tập trung tìm hiểu
"Phát triển kinh tế trang trại ở nông thôn Việt Nam".
NỘI DUNG CHÍNH
I. Định nghĩa và thao tác hoá những khái niệm cơ bản
1. Khái niệm “ phát triển”
Theo từ điển triết học: Phát triển là sự vận động của sự vật, hiện tượng theo chiều hướng đi lên, từ thấp lên cao, từ giản đơn đến phức tạp, đưa đến sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ.
2. Khái niệm “ trang trại”
Trên thế giới người ta thường dùng các thuật ngữ: Ferme ( tiếng Pháp), Farm (tiếng Anh), ... để chỉ trang trại ( tiếng Việt). Các thuật ngữ trên được hiểu chung là nông dân, chủ trang trại, người nông dân gắn với ruộng đất, với đất đai nói chung.
Trang trại là cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp của một hay một nhóm nhà kinh doanh.
Ở Việt Nam, trang trại là cơ sở sản xuất nông nghiệp gắn với hộ gia đình nông dân _ Theo GS.TS Bùi Minh Vũ ( nghiên cứu viên cao cấp của viện khoa học Lâm Nghiệp VIệt Nam): “ trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp ( bao gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp) mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành với quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn cùng phương thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ để sản xuất ra các loại sản phẩm hàng hoá phù hợp với yêu cầu đặt ra của cơ chế thị trường”.
3. Khái niệm “ kinh tế thị trường”
Nghị quyết số 03/ 2000/ NQ-CP của chính phủ về kinh tế trang trại ký ngày: 02/ 02/ 2000 đã chỉ rõ: “ Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản”.
II. Đặc trưng của kinh tế trang trại và tiêu chí để phân biệt kinh tế trang trại với các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp khác
1. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Đặc trưng của kinh tế trang trại được Marx nêu ra một cách khái quát: “Người chủ trang trại sau mỗi vụ sản xuất bán toàn bộ sản phẩm làm ra và mua vào tất cả các vật tư cần thiết cho sản xuất kể cả thóc giống”.
Qua đó có thể they được rằng: Đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại là sản xuất nông sản hàng hoá, các yếu tố đầu vào và đầu ra của trang trại đều là hàng hoá ( trước TBCN: sản xuất khép kín, sở hữu thuộc vua.).
Bẩy đặc trưng cơ bản của trang trại: (Sơ đồ ( ).
2. Tiêu chí để phân biệt kinh tế trang trại với các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp khác
* Tiêu chí định tính
Tiêu chí cơ bản để nhận dạng kinh tế trang trại là tiêu chí sản xuất nông sản hàng hoá là chủ yếu. Còn sản xuất tự túc là chủ yếu thì không phải là trang trại.
* Tiêu chí định lượng
Tiêu chí cơ bản để nhận dạng kinh tế trang trại là tỷ suet nông sản hàng hoá cao ( 70 - 80% trở lên so với tổng sản lượng hàng hoá làm ra) kết hợp với khối lượng nông sản hàng hoá. Ngoài ra còn có thể lấy thêm tiêu chí kinh tế trang trại là tổ chức sản xuất theo phương thức công nghiệp hoá.
Các nước trên thế giới thường không lấy quy mô đất đai, nguồn vốn đầu tư hay số lao động sử dụng làm tiêu chí để phân biệt giữa trang trại với các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp khác vì tiêu chí này không nói lên được sự khác biệt cơ bản giữa trang trại với các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp không phải là trang trại.
III. Phân loại kinh tế trang trại
1. Phân loại theo cơ cấu thu nhập
Ở những nước nông nghiệp kém phát triển, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp. Do vậy cơ cấu thu nhập của các trang trại dựa hoàn toàn hay phần lớn vào nông nghiệp. Người ta gọi đó là những “trang trại thuần nông”.
Ngược lại, loại trang trại thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp, ngoài trang trại ngày càng tăng. Ở một số nước, loại trang trại này nhiều hơn trang trại thuần nông.
2. Phân loại theo cơ cấu sản xuất
Cơ cấu này được xác định căn cứ vào điều kiện tự nhiên, trình độ sản xuất và đăc điểm thị trường của từng vùng. Nhièu trang trại kinh doanh tổng hợp, kết hợp nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp như các nước châu Á, kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp như các nước Bắc Âu. Những nước có nông nghiệp phát triển đến trình độ cao như Mỹ, Canada, ...thì cơ cấu sản xuất theo hướng chuyên môn hoá. Có những trang trại chuyển sang sản xuất nông sản hay lâm sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến...
3. Phân loại theo hình thức tổ chức quản lý
Trang trại gia đình: là kiểu trang trại độc lập sản xuất kinh doanh do người chủ hộ hay một người thay mặt gia đình đứng ra quản lý và thuê lao động khi cần.
Trang trại liên doanh do 2 - 3 trang trại gia đình hợp thành một trang trại lớn với năng lực sản xuất lớn hơn, đủ sức cạnh tranh với các trang trại lớn. Tuy nhiên mỗi trang trai thành viên vẫn có quyền tự chủ điều hành sản xuất.
Trang trai hợp doanh kiểu cổ phần là loại trang trại có quy mô lớn, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu. Có 2 loại hợp doanh nông nghiệp: hợp doanh gia đình và hợp doanh phi gia đình.
4. Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
Trường hợp phổ biến là người củ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất từ đất đai, công cụ máy móc đến chuồng trại, kho bãi.
Hình thức 2 là chủ trang trại chỉ có sở hữu một phần tư liệu sản xuất, còn một phần phải đi thuê của người khác.
Hình thức 3 là chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà đi thuê toàn bộ các cơ sở của một trang trại hoặc cảu nhà nước để sản xuất, không chỉ máy móc, thiết bị, kho bãi, chuồng trại mà cả đất đai, mặt nước, rừng cây...( thực tế các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy, sở hữu tư liệu sản xuất không phải là yếu tố chủ yếu quyết định sự thành đạt của một trang trại.
5. Phân loại theo phương thức điều hành sản xuất
Nhiều nước, chủ trang trại sống ngay ở nông thôn cùng với gia đình là phổ biến và trực tiếp đIều hành sản xuất cũng như trực tiếp lao động.
Ở một số nước và lãnh thổ công nghiệp phát triển, chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn tiếp tục điều hành trang trại, trực tiếp lao động sản xuất thường xuyên hoặc định kỳ. Có chủ trang trại sống và làm việc ở thành phố, không trực tiếp điều hành trang trại mà thuê người quản lý.
6. Phân loại dựa vào quy mô sản xuất
Trang trại nhỏ
Trang trại vừa
Trang trại lớn
IV. Điều kiện hình thành và phát triển trang trại
1. Điều kiện khách quan
Tác động của nhà nước
Ruộng đất và chính sách ruộng đất
Chế biến nông sản
Hạ tầng cơ sở
Sản xuất vùng chuyên môn hoá
Liên kết kinh tế
Môi trường, hành lang pháp lý
2. Điều kiện chủ quan
Chủ trang trại
Quy mô trang trại
Quản lý sản xuất kinh doanh ( hạch toán + phân tích kinh doanh)
V. Thế mạnh của kinh tế trang trại
Được nhà nước khuyến khích phát triển bảo hộ
Diện tích đất trồng, đồi núi trọc, đất hoang hoá còn nhiều ( nhất là các vùng trung du, miền núi, ven biển)
Lao động nông thôn còn rất dồi dào
Một số trang trại có thuận lợi về thị trường khi trực tiếp sản xuất và cung cấp giống tốt làm dịch vụ kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân trong vùng.
Huy động được lực lượng vố đầu tư rất lớn trong dân
Hiện nay ở các nước phát triển trên thế giới, hình thức kinh doanh nông nghiệp phổ biến là trang trại, hàng năm sản xuất từ 60 - 90% khối lượng nông sản cả nước. ậ các nước dang phát triển, số hộ trang trại đã xuất hiện ngày càng nhiều thay thế dần các hộ tiểu nông. Ở nước ta số hộ tiểu nông hiện nay đang chiếm tỷ lệ tới 99%, số trang trại gia đình chỉ mới chiếm 1% ( 113.000 trang trai gia đình / 12 triệu hộ dân)
Theo nghiên cứu của một số nhà khoa học nước ngoài thì quá trình phát triển ở các nước thường trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn tự cung tự cấp, giai đoạn kinh doanh tổng hợp và giai đoạn cách mạng hoá.
Sản xuất hàng hoá là đặc điểm cơ bản trong sự khác biệt giữa kinh tế tiểu nông và kinh tế trang trại. Thì quy luật chung của nông nghiệp thế giới, ở nước ta tất yếu phải diễn ra quá trình chuyển biến từ hình thức sản xuất hộ nông dân sang hình thức sản xuất và kinh doanh của các trang trại.
Dự báo về sự phát triển trang trại ở nông thôn nước ta, các nhà kinh tế cho rằng 20 năm tới, Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc nông nghiệp, lúc đó nông dân chỉ còn dưới 50%, khoảng 30 triệu người. Có thể nói: Kinh tế trang trại như là hình ảnh của nền kinh tế hộ nông dân trong tương lai.
Các nhà khoa học của nước ta đã viết: “Chúng tôi dự đoán đến thời kỳ 2010 - 2020 số trang trại gia đình sẽ chiếm khoảng 50 - 60% tổng số hộ nông dân. Khi đó kinh tế trang trại sẽ giữ vị trí quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp, chiếm tới 70 - 80% giá trị sản lượng toàn ngành nông nghiệp”.
VI. Thực trạng của kinh tế trang trại nước ta
1. Nguồn gốc kinh tế trang trại ở nước ta
Với chính sách đổi mới của nhà nước, kinh tế hộ nông dân dã phát huy mọi tiềm nănmg để vươn lên dần hoà nập vào nền kinh tế thị trường.
Dưới tác động của các quy luật của các thị trường hàng hoá, một số bộ phận nông dân đã không chịu sống cảnh no đủ gia đình mà có ý chí vươn lên làm giàu bằng cách khai thác các ưu thế của đất đai, đồng vốn quay vòng. Sự hấp dẫn của lợi nhuận thị trường khiến họ đã sản xuất dư thừa để cung ứng cho thị trường. Chính đó là con đường xuất hiện và hình thành các trang trại, lúc đầu mới chỉ là lẻ tẻ bộ phận trong một số vùng, địa phương, sau nhanh chóng kan toả nhân rộng ra thành phong trào làm kinh tế trang trại.
Nghị quyết 06 ngày 10/ 11/ 1998 của bộ chính trị đã viết: “ ở nông thôn hiện nay đang phảt triển mô hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Một bộ phận trang trại ngoài lao động của gia đình có thể thuê thêm lao động để sản xuất kinh doanh quy mô diện tích đáat canh tác xung quanh mức hạn điền ở từng vùng theo quy định của pháp luật”.
Từ đó cho thấy kinh tế trang trại nước ta bắt nguồn từ kinh tế hộ nông dân “ đây là sự nối tiếp và phát triển của hộ nông dân, phù hợp vơi sự chuyển đổi về kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn nước ta thời gian tới” ( Bùi Tất Tiếp - Phó vụ trưởng vụ chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn).
2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện
Các yếu tố sản xuất của trang trại
Đất đai của trang trại
Đất đai của trang trại ở nước ta tính bình quân cho một trang trại là 6,663 ha. Trong đó có những tỉnh quy mô đất đai của một trang trại cao hơn như: Nghệ An (12,96 ha), Yên Bái (10,17 ha). Đất đai đã được giao cho trang trại chiếm 71,83% tổng quý đất, số còn lại 28,17% chưa được giao với nguồn gốc rất đa dạng và phong phú.
Đất đai có được có thể do nhà nước cấp, các nông, lâm trường khoán cho công nhân và nông dân, do viêc chuyển nhượng đất đai để làm kinh tế trang trại, do thuê đất hoặc do tự khai phá...
Nguồn vốn
Vốn là một yếu tố cơ bản để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá. Trong nông nghiệp, nhất là vùng đồi núi, các hộ nông dân sản xuất theo phương thức thự cấp, tự túc, muốn chuyển lên sản xuất hàng hoá phải có vốn. Trên thưc tế đang tồn tại một vòng luẩn quẩn:
Thu nhập
Sản xuất phát triển chậm Sức mua thấp
Đầu tư thấp
Thiếu vốn, đầu tư sẽ thấp, sản xuất kém phát triển và cứ thế sẽ tiếp nối vòng tuần hoàn luẩn quẩn.
Từ vai trò của vốn trong quá trình tái sản xuất, nhiều nhà kinh tế thế giới đã rút ra hệ số gia tăng tư bản_ đầu ra (hệ số ICOR) liên quan đến tăng trưởng sản xuất nông nghiệp như sau:
ICOR nằm giữa 1 - 2,5: Tăng trưởng chủ yếu dựa vào lao động, chưa chủ yếu dựa vào vốn. Đây là đặc trưng cho các nước nghèo, kinh tế hàng hoá ở giai đoạn sơ khai, chưa phát triển.
ICOR nằm giữa 2,5 - 4,5: Là mức dùng tư bản đã bắt đầu tăng lên và thuộc các nước đang phát triển.
ICOR cao hơn 4,5: Khi sử dụng công nghệ hiện đại, vốn đầu tư lớn và nguồn lao động hạn chế, thiếu lao động, tiêu biểu của các nước công nghiệp phát triển.
Đối với hệ số ICOR trong những năm qua, nước ta mới ở ranh giới từ nghèo bước sang giai đoạn sử dụng mạnh mẽ vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế:
1990 ... 1,15 1996 ... 3,05
1991 ... 2,06 1997 ... 3,12
1992 ... 1,58 1998 ... 3,11
... ... ... 1999 ... 2,98
1995 ... 2,93 2000 ... 2,58
Bình quân về vốn của trang trại là 291,43 triệu đồng. Cao nhất là Đắc Lắc (619,5 triệu đồng) và thấp nhất là Yên Bái (96,33 triệu đồng)
Nguồn vốn của trang trại chủ yếu là vốn tự có ( bình quân vốn tự có chiếm 91,3%), vốn vay chiếm 8,7%, trong đó vay trực tiếp của ngân hàng chiếm 48,08%.
Về lao động của trang trại
Chủ trang trại có bằng từ sơ cấp trở lên chiếm 31%, chủ trang trại có trình độ văn hoá cấp II chiếm 69%.
Lao động làm thuê: Số trang trại thuê lao động thường xuyên chiếm 33%, số trang trại thuê lao động theo thời vụ chiếm 67%.
Mỗi trang trại nếu biết cân đối đúng giữa lao động và máy móc thì lợi nhuận thu về sẽ tối đa. Trong các trang trai hiện nay thường có 2 hình thức sử dụng lao động: một là sử dụng lao động tiềm năng ngay trong nội bộ gia đình, hai là thuê mướn nhân công ở ngoài. Hầu hết các trang trại đều thuê mướn nhân công, số này tuỳ thuộc vào quy mô trang trại lớn hay nhỏ và tính chất các khâu công việc của trang trại. Trang trại có quy mô từ 10 ha trở lên thường thuê từ 1-3 lao động thường xuyên, vào lúc thời vụ khẩn trương thuê từ 10-20 lao độn.
Ở 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước, trang trại 20 - 30 ha canh tác phải thuê mướn vài ngàn ngay công từ bên ngoài. Trang trại Lâm nghiệp Đỗ Thập (Yên Bình) kinh doanh 300 ha rừng đã từng thuê thường xuyên từ 100 lao động trở lên
Tổ chức hoạt động của trang trại
Các loại hình sản xuất kinh doanh: có 9 loại hình sản xuất kinh doanh của trang trại: loại hình trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm 50%, còn lại là các trang trại trồng cây lâu năm, cây ăn quả,...
Giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất của trang trại
Giá trị sản xuất bình quân của một trang trại là 5,4triệu đồng. Cao nhất là Đồng Nai (224,9 triệu đồng), thấp nhất la Quảng Ninh (22,5 triệu đồng)
Cơ cấu giá trị sản xuất bình quân một trang trại đIều tra cho thấy: Trồng trọt chiếm tỷ lệ tương đối cao (57%), chăn nuôi chiếm 27%, thuỷ sản chiếm 14%, lâm nghiệp chiếm 2%.
Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại
Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại bình quân 92 triệu đồng, tỷ suất hàng hoá 87%.
Cơ cấu giá trị hàng hoá của trang trại khác nhau giữa các vùng, giữa các chủ hộ và giữa các trang trại có hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau.
Thu nhập bình quân của trang trại là 46 triệu đồng chiếm 44% tổng thu.
Thu nhập bình quân hàng năm của một lao động là 16 triệu đồng, của một nhân khẩu là 8 triệu đồng.
Chỉ tiêu cho đời sống bình quân một trang trại là 24 triệu đồng/ năm (trong đó ăn uống chiếm 55%)
Tổng giá trị tài sản phục vụ cho đời sống, bình quân một trang trại là 84 triệu đồng.
VII. Nhận xét, đánh giá chung về kinh tế trang trại ở nước ta
Về sản xuất hàng hoá: Kinh tế trang trại đã phát triển mạnh ở nhiều địa phương, nhiều vùng, nhất là vùng trung du miền núi và ven biển Kinh tế trang trại đã thực sự trở thành đơn vị tổ chức sản xuất hàng hoá.
Chủ trang trại từ nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn (71%). Họ là những người ít nhiều có kinh nghiệm sản xuất, gắn bó vớ xóm làng, đồng ruộng. Nông dân trở thành nguồn lực làm ăn giỏi với trang trại gia đình là loại hình chủ yếu.
Tuy nhiên, phần lớn chủ trang trại xuất thân từ người sản xuất nhỏ hiểu biết về thị trường, khoa học kỹ thuật và quản lý còn hạn chế, lại thiếu vốn nên sản xuất quảng canh, hiệu quả thấp. Khi có biến động về thị trường, giá nông sản xuống thấp, tiêu thụ sản phẩm gặp kho khăn, thu nhập của các chủ trang trại bị ảnh hưởng. Một số trang trại lâm vào cảnh nợ nần phá sản, phải chuyển nhượng đất đai.
Diện tích đất trống, đồi núi trọc còn nhiều. Quy mô trang trại ngày càng được mở rộng. Khi phát triển yếu tố quy mô trang trại trong quá trình phát triển nông nghiệp TBCN, Lênin nhận xét: “Con đường phát triển chủ yếu nông nghiệp TBCN chính là ở chỗ ấp trại nhỏ, tuy vẫn là nhỏ nếu tính theo diện tích, nhưng lại hoá thành ấp trại lớn, nên xét quy mô sản xuất, xét theo sự phát triển của việc sử dụng máy móc… là có những ấp trại “lớn” hơn về diện tích nhưng lại loại trừ bởi những ấp trại “nhỏ” về diện tích, nhưng có năng suất cao hơn, có trình độ thâm canh cao hơn…”.
( Về vấn đề vốn của trang trại: Các ông chủ trang trại muốn thực hiện mục đích của mình cần phải có vốn ban đầu, có tích lũy ban đầu. Trong khi đó việc phân bố vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn chưa tương xứng với vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân.Vì vậy,để đạt được mục tiêu tăng trưởng hàng năm cần phát triển cây công nghiệp xuất khẩu, vườn rừng dạng chuyên canh, chăn nuôi ( kể cả đặc sản ),tăng trưởng trên mức trung bình .Các tiểu ngành này đang là ưu thế của mô hình kinh tế trang trại.
Một thực trạng đáng lo ngại là tuy mức đầu tư tuyệt đối của ngân sách Nhà Nước vào nông nghiệp vẫn tăng lênn nhưng tỉ lệ đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp trong tổng đầu tư lại giảm từ 20% năm 1990 xuống mức 10% năm 1995.
Trong thực tế, tỉ lệ đầu tư vào nông nghiệp lớn hơn nhưng cho đến nay chưa có nguồn thống kê nào phản ánh được tổng khối lượng vốn đầu tư của Nhà Nước và của mọi thành phần kinh tế vào nông nghiệp nông thôn.
Rõ ràng , nhân tố quyết định để tăng năng suất ,đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp là phải đầu tư vào nông nghiệp nhiều hơn ( cả về mức tuyệt đối và tỉ lệ ) tập trung cho cơ sở hạ tầng sản xuất , thúc đẩy việc nghiên cứu và ứng dụng kĩ thuật, công nghệ mới nhất là công nghệ sinh học.
Cần có chính sách hỗ trợ vốn ( trung và dài hạn ) cho trang trại.Chính sách đó có vai trò quan trọng đối với việc khuyến khích và phát triển kinh tế trang trại.
( Về mô hình sản xuất: Phần lớn các trang trại có phương hướng kinh doanh phù hợp với các vùng chuyên canh. Phương hướng đó góp phần quan trọng vào việc hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa lớn gắn liền với các trung tâm chế biến nông, lâm, sản.
Tuy nhiên ở hầu hết các địa phương có trang trại phát triển chưa chủ động triển khai quy hoạch sản xuất , không có hệ thống thủy lợi, giao thông, điện nước, thông tin liên lạc, thị trường kém phát triển.Tình trạng an toàn xã hội không được đảm bảo nhất là các vùng sâu,vùng xa nên trang trại chưa phát triển được hết sức mạnh kinh tế của vùng.