Theo quan niệm kinh tế chính trị Mac_Lenin, hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua mua bán. Vì vậy, không phải bất kỳ vật phẩm nào cũng là hàng hoá.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (giá trị trao đổi).
69 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng biện pháp, tăng cường tiêu thụ sản phẩm ở công ty cổ phần kính mắt Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
1
Mục lục
3
Chương I: Một số lý luận về sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp.
6
1.1. Sản phẩm hàng hoá và thị trường sản phẩm của các doanh nghiệp.
6
1.1.1. Quan niệm về sản phẩm hàng hoá trong nền kinh tế thị trường
6
1.1.2. Thị trường sản phẩm hàng hoá và cơ chế hoạt động của thị trường sản phẩm.
7
1.2. Các nhân tố tác động dến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
12
1.2.1. Tiêu thụ sản phẩm và các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
12
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
14
1.3. Nội dung và một số yêu cầu chủ yếu về tiêu thụ và tăng cường tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp.
17
1.3.1. Một số nội dung chủ yếu của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
18
1.3.2. Một số yêu cầu cơ bản về tăng cường tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp.
32
Chương II: Phân tích thực trạng về kết quả và tình hình hoạt động tiêu thụ ở công ty kính mắt Hà Nội.
37
2.1. Những đặc điểm chung của công ty kính mắt Hà Nội liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
37
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của công ty cổ phần kính mắt Hà Nội.
37
2.1.2. Mô hình tổ chức quản lý của công ty cổ phần kính mắt Hà Nội.
41
2.1.3. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty.
43
2.2. Phân tích kết quả và tình hình hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở công ty cổ phần kính mắt Hà Nội.
48
2.2.1. Phân tích kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty trong thời gian qua.
48
2.2.2. Thực trạng về hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty trong thời gian qua.
51
2.3. Những tồn tại chủ yếu và tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần kính mắt Hà Nội.
55
2.3.1. Hoạt động mở rộng thị trường còn yếu kém.
55
2.3.2. Hệ thống mạng lưới bán hàng chưa hiệu quả.
57
2.3.3. Hoạt động hỗ trợ bán hàng chưa phát huy hiệu quả.
57
Chương III: Phương hướng biện pháp, tăng cường tiêu thụ sản phẩm ở công ty cổ phần kính mắt Hà Nội.
59
3.1.Phương hướng chủ yếu nhằm tăng cường tiêu thụ sản phẩm.
59
3.1.1. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu và tiêu thụ.
59
3.1.2. Khai thác và sử dụng tốt các nguồn lực đầu vào nhằm hạ giá thành nâng cao năng lực cạnh tranh về sản phẩm của công ty trên thị trường.
61
3.1.3. Tổ chức mạng lưới bán hàng theo hướng kết hợp của cả hai kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp nhằm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm.
61
3.2. Một số biện pháp chủ yếu tăng cường tiêu thụ sản phẩm ở công ty cổ phần kính mắt Hà Nội.
62
3.2.1. Đổi mới thiết bị công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả công tác tiêu thụ sản phẩm.
63
3.2.2. Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
68
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống các chính sách tiêu thụ sản phẩm phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.
69
3.3. Một số kiến nghị đối với cơ quan vĩ mô.
73
3.3.1. Nhanh chóng đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động.
74
3.3.2. Có chính sách hỗ trợ về vốn.
75
Tài liệu tham khảo.
76
Chương 1: một số lí luận về sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp.
1.1 Sản phẩm hàng hoá và thị trường sản phẩm của các doanh nghiệp.
1.1.1 Quan niệm về sản phẩm hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan niệm kinh tế chính trị Mac_Lenin, hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua mua bán. Vì vậy, không phải bất kỳ vật phẩm nào cũng là hàng hoá.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (giá trị trao đổi).
_ Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con ngươì. Giá trị tri sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá qui định. Vì vậy nó là một phạm trù vĩnh viễn. Giá trị hàng hoá có đặc điểm : là giá trị sử dụng không phải cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội. Giá trị sử dụng đến tay người tiêu dùng phải thông qua mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
_ Giá trị hàng hoá : Để hiểu được giá trị hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi biểu hiện là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn nhau giữa các giá trị khác nhau. Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau nhưng lại được trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định nào đó, vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao phí lao động của con người. Lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, là giá trị của hàng hoá. Như vậy, giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là biểu hiện của giá trị.
Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp sản xuất ra một vật phẩm của mình (đúng với các tiêu chuẩn về kỹ thuật đối với vật phẩm đó) và có thể trao đổi trên thị truờng thì vật phẩm đó được gọi là hàng hoá và nó có đầy đủ hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
1.1.2 Thị trường sản phẩm hàng hoá và cơ chế hoạt động của thị trường sản phẩm.
1.1.2.1 Thị trường và các chức năng cơ bản của thị trường.
Có nhiều quan niệm khác nhau về thị trường, tuỳ vào cách nhìn nhận ở các góc độ khác nhau về thị trường. Theo C_Mac: khái niệm thị trường không tách rời với khái niệm phân công xã hội, đó là cơ sở chung của mọi nền sản xuất hàng hoá. Bất cứ ở đâu và khi nào có sự phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó có thị trường. Thị trường là sự biểu hiện của sự phân công lao động xã hội và vì thế nó có thể phát triển vô cùng theo các nhà sản xuất, kinh doanh, bán buôn. Người tiêu dùng tham gia vào thị trường cho rằng: Thị trường là sự gặp gỡ giữa cung và cầu một sản phẩm, các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm và người tiêu dùng.
Theo quan điểm hiện đại (của hai nhà kinh tế học người Mỹ là Paul Asamelson và William D.Nordhans) thì cho rằng: Thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hoá tác động qua laị để xác định giá cả và số lượng.
Tựu chung lại có thể nói: Thị truờng là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá, giá cả dịch vụ và sản lượng. Qua đó thấy rằng, để hình thành nên thị truờng cần có các yếu tố sau:
_ Có địa điểm cụ thể và rộng hơn nữa là không gian mua bán trao đổi.
_ Có đối tượng để thực hiện trao đổi : là sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ.
_ Có đối tượng tham gia trao đổi: là người mua và người bán. Người mua là người có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và có khả năng thanh toán, còn người bán hàng hoá mang lại sự thoả mãn cho khách hàng.
Điều kiện để thực hiện trao đổi : là sự thoả thuận giữa người mua và người bán thông qua giá cả của thị trường. Thị trường là một phạm trù rất rộng, nếu nhìn nhận một cách tổng quát thì sẽ không hiểu rõ được các khía cạnh của thị trường.
Xuất phát từ mục đích đó, thị trường được phân loại như sau:
*Căn cứ vào sự lưu thông hàng hoá thị trường được chia thành:
_ Thị trường các yếu tố đầu vào (thị trường các yếu tố sản xuất) bao gồm nguyên vật liệu, vốn, công nghệ máy móc, con người phục vụ cho quá trình sản xuất.
_ Thị truờng các yếu tố đầu ra (thị trường hàng hoá và dịch vụ) bao gồm tất cả các sản phẩm là hàng hoá hay dịch vụ của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
* Căn cứ vào đối tượng tham gia thì thị trường bao gồm:
_ Thị trường người bán: Là toàn bộ các đơn vị có thể cung cấp một hàng hoá hay dịch vụ nào đó ra thị trường. Trong thị trường này có sự cạnh tranh giữa những người bán với nhau, nếu thị trường người bán là mạnh thì sẽ xuất hiện độc quyền bán.
_ Thị truờng người mua: trong thị truờng này vai trò quyết định thuộc về người mua, nếu thị trường người mua có sức mạnh thì dẫn đến độc quyền mua.
* Căn cứ vào qui mô thị trường:
_ Thị trường trong nước: chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia.
_ Thị trường khu vực và thế giới: Diễn ra trong phạm vi khu vực và trên toàn thế giới, đây là thị trường lớn nhất, ngày nay trong xu hướng quốc tế hoá được mở rộng, các doanh nghiệp kinh doanh phải chú ý đến tiềm năng to lớn của thị truờng này.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh, chia thị trường thành:
_ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: thị trường này có đặc điểm là các chủ thể kinh tế không có một chút nào về sức mạnh thị trường, họ phải bán với giá cả thị trường mà không được tự ý thay đổi giá, nếu giá chỉ tăng một chút thôi thì cầu đến với sản phẩm đó sẽ bằng không. Ví dụ như thị trường trứng gà, trứng vịt..........
_ Thị trường cạnh tranh độc quyền: thị trường này bao gồm một số hữu hạn các chủ thể kinh tế, có thể chi phối cả thị trường (độc quyền theo nhóm). Ví dụ thị truờng dầu gội đầu, kem đánh răng...
Thị trường cạnh tranh độc quyền này cũng có thể dẫn tới độc quyền tập đoàn(xuất hiện khi một đơn vị cạnh tranh có khả năng thao túng tất cả các đơn vị khác) có sức mạnh chi phối toàn bộ cả thị trường.
Thị trường có các chức năng sau:
_ Chức năng thừa nhận: chức năng này đảm bảo cho hàng hoá được thị truờng chấp nhận. Sản xuất hàng hoá là việc riêng của từng người có tính chất độc lập tương đối với người sản xuất khác. những vấn đề mấu chốt là hàng hoá của họ có đáp ứng nhu cầu xã hội về chất lượng, hình thức, qui cách so với thị hiếu người tiêu dùng không? Chi phí để sản xuất hàng hoá có được xã hội chấp nhận không? Chỉ có trên thị trường và thông qua thị trường các vấn đề trên mới được khẳng định.
_ Chức năng cung cấp thông tin: chức năng này đảm bảo cho người sản xuất và người tiêu dùng hiểu rõ những biến động về nhu cầu xã hội: số lượng, giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá, dịch vụ. Giúp người sản xuất điều chỉnh sản xuất cho phù hợp nhu cầu thị hiếu ... của người tiêu dùng.
_ Chức năng điều tiết, kích thích: Tuỳ theo sự biến động trên thị trường về giá cả và số lượng hàng hoá, thị trường có tác dụng kích thích và hạn chế sản xuất đối với người sản xuất, kích thích và hạn chế tiêu dùng đối với người tiêu dùng.
1.1.1.2. Cơ chế hoạt đông của thị trường.
Như ở trên đã nói, thị trường là một phạm trù rộng lớn, bao gồm trong nó tổng thể các nhân tố, các quan hệ toàn bộ thị trường, các động lực, các qui luật đang chi phối sự vận động của thị trường. Thị trường bị chi phối bởi các qui luật chủ yếu như:
_ Qui luật giá trị.
_ Qui luật cạnh tranh.
_ Qui luật cung cầu.
* Qui luật giá trị :
Đây là qui luât cơ bản của sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có qui luật giá trị hoạt động. Qui luật này yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Người sản xuất phải tuân theo yêu cầu của qui luật giá trị mới phát triển được, ngược lại họ sẽ thua lỗ và phá sản. Qui luật này có một số tác dụng sau:
_ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Trong quá trình sản xuất và kinh doanh, chủ thể kinh tế phải căn cứ vào cầu hàng hoá đó trên thị trường để quyết định mở rộng sản xuất hay thu hẹp hoặc chuyển sang sản xuất kinh doanh ở lĩnh vực khác. Kêt quả là các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền, vốn chuyển từ ngành này sang ngành khác, làm cho qui mô ngành này mở rộng ngành kia thu hẹp. Đó là sự điều tiết sản xuất. Qui luật giá trị còn điều tiết lưu thông hàng hoá, hàng hoá bao giờ cũng vận động từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, qui luật giá trị có tác dụng điều tiết sự vận động đó.
_ Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tăng năng xuất lao động. Qui luật giá trị đòi hỏi hàng hoá được trao đổi trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, do đó để sản xuất và kinh doanh có lãi, người sản xuất phải làm giảm hao phí lao động cá biệt xuống thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, vì vậy cần thúc đẩy quá trình cải tiến kỹ thuật, tăng năng xuất lao động. Ngoài ra để thu nhiều lãi, người sản xuất còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hoá..... cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Vì vậy qui luật giá trị có tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng hoá nhiều, nhanh, tốt, rẻ hơn.
_ Phân hoá những người sản xuất hàng hóa: Trên đây là các tác dụng tích cực của qui luật giá trị, bên cạnh đó tác dụng tiêu cực của qui luật này là phân hoá những người sản xuất hàng hoá thành giàu, nghèo khác nhau.
Xuất phát từ yêu cầu của qui luật giá trị, một số người sản xuất trong điều kiện thuận lợi về trình độ, kiến thức, trang bị kỹ thuật, vốn... sẽ phát tài và trở thành giàu có. Ngược lại, những người không có các điều kiện trên hoặc gặp rủi ro sẽ dẫn tới mất vốn, phá sản.
*Qui luật cạnh tranh:
Cạnh tranh là ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các đơn vị sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng hàng hoá, dich vụ nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hoá để thu nhiều lợi ích nhất cho mình. Trên tinh thần đó, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, giá rẻ hơn các đơn vị sản xuất kinh doanh khác mới mong chiếm lĩnh được thị trường. Qui luật cạnh tranh buộc các doanh nghiệp khi bước vào sản xuất kinh doanh phải nghiên cứu thị trường, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng. Do đó cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất như ở trên đã trình bày mà còn làm cho sản xuất gắn với tiêu dùng, phục vụ nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn.
*Qui luật cung cầu:
Qui luật này phản ánh mối quan hệ giữa cung cầu trên thị trường:
_ Cầu được hiểu ở đây không phải là nhu cầu bất kỳ mà là nhu cầu có khả năng thanh toán. Như vậy qui mô của cầu phụ thuộc chủ yếu vào tổng số tiền xã hội dùng để mua tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, dịch vụ trong từng thời kỳ nhất định.
_ Cung là tổng số hàng hoá có ở thị trường hoặc có khả năng thực tế cung cấp cho thị trường.
Qui luật cung cầu hoạt động khách quan, độc lập với ý thức con người, biểu hiện sự hoạt động của nó thông qua sự vận động lên xuống của giá cả xung quanh giá trị trên thị trường.
Giá(P) cung
P* E
Cầu
0 Q* Sản Lượng(Q)
1.2 Các nhân tố tác động đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
1.2.1 Tiêu thụ sản phẩm và các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
1.2.1.1 Tổng quan về tiêu thụ sản phẩm.
Trước đây trong nền kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp không quan tâm đến công tác tiêu thụ sản phẩm vì hai lý do:
+Thứ nhất là do phải thực hiện quá nhiều các chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước (có tới 11 chỉ tiêu) doanh nghiệp bị “đóng băng” trong vòng vây 11 chỉ tiêu này, doanh nghiệp chỉ cần biết sản xuất ra sản phẩm còn khâu tiêu thụ đã có nhà nước lo và nhà nước cũng dùng các chỉ tiêu pháp lệnh buộc dân chúng phải tiêu dùng.
+Thứ hai là do cầu rất lớn so với cung (sản xuất ra ít nhưng tiêu dùng lại nhiều). Do vậy lúc đó các doanh nghiệp không quan tâm đến người tiêu dùng.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp được tự do hạch toán kinh doanh độc lập vì vậy việc có tiêu thụ được hàng hoá hay không là điều quan trọng, cứ sản xuất mà không tiêu thụ được thì doanh nghiệp sẽ phá sản vì vốn ứ đọng quá nhiều.
Như vậy ta có cái nhìn chung về tiêu thụ sản phẩm như sau: “ Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của sản xuất kinh doanh, là quá trình chuyển giao quyền sở hữu và quyền sử dụng sản phẩm của mình cho người sử dụng để thu tiền tệ”.
Quá trình tái sản xuất mở rộng gồm 4 khâu : Sản xuất-phân phối-trao đổi-tiêu dùng. Quá trình chỉ kết thúc khi người bán nhận được tiền và người mua nhận được hàng, tức là lúc đó công tác tiêu thụ mới hoàn thành.
1.2.1.2 Các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả hoạt động tiêu thụ sản
phẩm ở các doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập và có hiệu quả, phải nghiên cứu và phân tích một hệ thống các chỉ tiêu liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong bài viết này vì không thể liệt kê được hết tất cả các chỉ tiêu ấy, em chỉ đưa ra một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả hoạt động tiêu thụ ở các doanh nghiệp.
_ Số lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh nhất định: Chỉ tiêu này phản ánh qui mô sản xuất của doanh nghiệp, chỉ tiêu này càng lớn là dấu hiệu cho ta biết thị phần của doanh nghiệp có xu hướng tăng lên.
_ Chỉ tiêu về doanh thu:
Doanh thu = sản lượng * giá bán.
DT = Q * P
Doanh thu tiêu thụ = sản lượng tiêu thụ * giá bán.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hiệu quả trong công tác tiêu thụ sản phẩm, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ công tác tiêu thụ sản phẩm có nhiều biến chuyển tốt đẹp, cần giữ vững và phát huy hơn nữa.
_ Chỉ tiêu về thuế nộp ngân sách nhà nước:
Chỉ tiêu này cho biết, phần thuế tính theo doanh thu phải nộp ngân sách nhà nước. Cũng tương tự chỉ tiêu doanh thu nó phản ánh kết quả trong công tác tiêu thụ sản phẩm.
1.2.2 Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân tố khác nhau. ở đây em xin tổng hợp các nhân tố đó thành hai nhóm cơ bản đó là:
1.2.2.1 Nhóm các nhân tố khách quan.
Nhóm các nhân tố này có thể bao gồm các nhân tố như sau:
- Các chính sách kinh tế của nhà nước, pháp luật và các qui định của nhà nước.Nhân tố này rất quan trọng khi doanh nghiệp quyết định loại hình kinh donh và sản phẩm của mình phải căn cứ vào hành lang pháp lý của nhà nước,xem xét loại hàng hoá mà mình định sản xuất được nhà nước khuyến khích tạo điều kiện hay cấm.
- Thu nhập và thị hiếu người tiêu dùng.
Thu nhập đân cư là một điều kiện quan trọng,nếu thu nhập thấp đời sống khó khăn thì đừng nói gì đến loại hàng hoá cao cấp họ chỉ quan tâm đến đời sống hằng ngày thôi.Nhưng khi thu nhập cao thì thị hiếu lại là điều quan trọng,khi đân chúng ưa chuộng một mẫu sản phẩm nào đó thì dù có đắt họ cũng mua,còn nếu không thì cho không cũng không đáng giá.
Một doanh nghiệp muốn thành công thì phải hiểu được thị hiếu của khách hàng, thị hiếu của khách hàng cũng hay thay đổi do chạy theo model hoặc du nhập từ các nước tiên tiến hơn, vì vậy doanh nghiệp không những không hiểu được thị hiếu người tiêu dùng mà còn “đón” được các thị hiếu sắp tới để chuẩn bị sản xuất hàng hoá tung ra thị trường.
- Phong tục tập quán,văn hoá người tiêu dùng.
Phong tục tập quán, văn hoá người tiêu dùng thường gắn với một vùng địa lý cụ thể theo các cấp độ: Quốc gia, vùng, dân tộc…. Yếu tố này chính là màu sắc “chính trị” trong từng vùng, nếu một doanh nghiệp không hiểu rõ phong tục tập quán, văn hoá của một vùng nào đó thì trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp phải những sai lầm không thể lường trước được.
- Mức độ cạnh tranh trên thị trường.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, một doanh nghiệp nào đó đưa ra thị trường một sản phẩm chất lượng cao, hình thức đẹp, giá rẻ thì không có một khách hàng nào có thể từ chối. Như vậy, cạnh tranh càng khốc liệt thì doanh nghiệp càng khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm (hàng hoá).
Xét theo một khía cạnh khác lạc quan hơn thì cạnh tranh hay cạnh tranh khốc liệt là một cơ hội đối với doanh nghiệp khi mà doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn các đối thủ khác thì cạnh tranh lại chính là hàng rào các đối thủ, đảm bảo thắng lợi cho doanh nghiệp.
Xét cho cùng thì cạnh tranh mới làm cho doanh nghiệp tự hoàn thiện mình, vì vậy một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận cạnh tranh và phải có sức cạnh tranh mạnh hơn.
1.2.2.2. Nhóm các nhân tố chủ quan:
Trong nhóm này có thể kể đến các nhân tố chính như sau:
- Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là toàn bộ những thuộc tính phản ánh chức năng, công dụng, tác dụng của sản phẩm đó. Chất lượng phải đạt được những tiêu chuẩn yêu cầu kinh tế-kỹ thuật đặt ra cho mỗi sản phẩm đó.
Theo ISO 9000: Chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng cơ bản của sản phẩm thể hiện sự thoả mãn của nhu cầu trong những tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn.
Chất lượng là vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp, cạnh tranh về chất lượng là một trong những hình thức cạnh tranh “đẹp” vì nó thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội.
Doanh nghiệp muốn nâng cao uy tín