Thị trường là một phạm trù không thể thiếu của nền kinh tế hàng hoá. Ban đầu, thị trường được xem là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá. Nó được gắn với không gian, thời gian và địa điểm cụ thể. Quan điểm cổ điển này xem thị trường nh là “ cái chợ “.
Do sự phát triển của sản xuất mà quá trình lưu thong hàng hoá, các mối quan hệ mua bán được tiến hành đa dạng, phong phú nhưng cũng rất phức tạp, dẫn đến quan niệm về thị trường được mở rộng hơn. Thị trường không còn bị giới hạn về không gian, địa điểm mà nó là “ một quá trình mà người mua, người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả, số lường hàng hoá trao đổi “. Hay theo quan niệm của hội Quản trị Mỹ : “ Thị trường là tổng hợp các lưu lượng và các điều kiện trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua “.
Tuy nhiên, các quan điểm về thị trường dù cổ điểm hay hiện đại ở trên đều mới chỉ dừng lại ở việc mô tả một thị trường chung dưới góc độ của các nhà phân tích kinh tế. Còn từ phía doanh nghiệp, để có thể đưa ra các công cụ điều khiển kinh doanh có hiệu quả, cần phải mô tả thị trường một cách cụ thể hơn, nghĩa là mỗi doanh nghiệp phải biết được chính xác cụ thể đối tượng cần tác động và các yếu tố chi tiết có liên quan. Yêu cầu hiểu biết về thị trường của doanh nghiệp là xác đáng.
Thị trường của doanh nghiệp thông thường được phân thành thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào liên quan đến khả năng và các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, thị trường đầu ra liên quan trực tiếp đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Để nhận biết rõ hơn, người ta thường mô tả thị trường đầu ra của doanh nghiệp bằng cách sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp một số tiêu thức cơ bản nh sản phẩm, địa lý và khách hàng.
Theo tiêu thức sản phẩm, thị trường của doanh nghiệp thường được xác định theo ngành hàng ( dòng sản phẩm ) hay nhóm hàng mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. Khi xem xét theo tiêu thức địa lý, thị trường chính là phạm vi không gian mà doanh nghiệp có thể thoả mãn được. ở cấp độ rộng hẹp khác nhau mà thị trường của doanh nghiệp được chia thành thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. Tiếp đó có thể phân chia thành những khu vực nhỏ hơn nh : thị trường xuất khẩu có thể được phân chia thành thị trường châu lục, thị trường khu vực. Việc mô tả thị trường theo 2 tiêu thức trên vẫn ở mức khái quát cao và thường thích hợp với doanh nghiệp. Điều này có thể dẫn đến việc bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh cũng như cách thức ứng xử của doanh nghiệp không phù hợp với thị trường do thông tin dễ bị sai lạc, thiếu chính xác. Vì vậy sử dụng tiêu thức khách hàng với nhu cầu của họ sẽ phần nào chính xác hơn vì nó cho phép doanh nghiệp xác định cụ thể nhóm khách hàng ( bao gồm hiện tại và tiềm năng ) mà doanh nghiệp hướng tới để thoả mãn. Lúc này doanh nghiệp có thể quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của các nhóm khách hàng riêng biệt, từ đó hình thành nên thị trường thích hợp - những nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có khả năng chinh phục.
Khi đó “ Thị trường có thể được hiểu là một nhóm khách hàng tiềm năng với các nhu cầu tương tù ( giống nhau ) và những người bán đưa ra những sản phẩm khác nhau với những cách thức khác nhau để thoả mãn những nhu cầu đó “.
Trên thực tế, để xác định thị trường , doanh nghiệp nên kết hợp cả 3 yếu tố trên. Trong đó tiêu thức khách hàng được dùng làm tiêu thức chủ đạo, tiêu thức sản phẩm để chỉ rõ cách thức cụ thể mà doanh nghiệp đưa ra phục vụ khách hàng và tiêu thức địa lý để giới hạn phạm vi không gian mà doanh nghiệp có thể thoả mãn.
Vì vậy thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chính là thị trường bên ngoài biên giới quốc gia, mà ở đó doanh nghiệp cùng những người bán khác cạnh tranh với nhau bằng những sản phẩm khác nhau, phương thức khác nhau trong quá trình hướng đến việc thoả mãn những nhu cầu tương tự nhau của nhóm khách hàng nước ngoài tiềm năng.
Tóm lại, dù xét dưới góc độ nào ta đều thấy rằng thị trường bao giê cũng phải có các yếu tè :
- Thứ nhất : phải có khách hàng ( người mua hàng ) và không nhất thiết phải gắn với địa điểm nhất định.
- Thứ hai : Khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn.
- Thứ ba : Khách hàng phải có khả năng thanh toán cho việc mua hàng.
73 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phương hướng và biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội
PHẦN I :LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP Lý luËn vÒ thÞ trêng vµ ph¸t triÓn thÞ trêng xuÊt khÈu cña doanh nghiÖp
I/Thị trường và vai trò của thị trường xuất khẩu đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu : ThÞ trêng vµ vai trß cña thÞ trêng xuÊt khÈu ®èi víi doanh nghiÖp xuÊt nhËp khÈu :
1. Khái niệm thị trường của doanh nghiệp và phân loại thị trường xuất khẩu :
1.1. Thị trường của doanh nghiệp :
Thị trường là một phạm trù không thể thiếu của nền kinh tế hàng hoá. Ban đầu, thị trường được xem là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá. Nó được gắn với không gian, thời gian và địa điểm cụ thể. Quan điểm cổ điển này xem thị trường nh là “ cái chợ “.
Do sự phát triển của sản xuất mà quá trình lưu thong hàng hoá, các mối quan hệ mua bán được tiến hành đa dạng, phong phú nhưng cũng rất phức tạp, dẫn đến quan niệm về thị trường được mở rộng hơn. Thị trường không còn bị giới hạn về không gian, địa điểm mà nó là “ một quá trình mà người mua, người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả, số lường hàng hoá trao đổi “. Hay theo quan niệm của hội Quản trị Mỹ : “ Thị trường là tổng hợp các lưu lượng và các điều kiện trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua “.
Tuy nhiên, các quan điểm về thị trường dù cổ điểm hay hiện đại ở trên đều mới chỉ dừng lại ở việc mô tả một thị trường chung dưới góc độ của các nhà phân tích kinh tế. Còn từ phía doanh nghiệp, để có thể đưa ra các công cụ điều khiển kinh doanh có hiệu quả, cần phải mô tả thị trường một cách cụ thể hơn, nghĩa là mỗi doanh nghiệp phải biết được chính xác cụ thể đối tượng cần tác động và các yếu tố chi tiết có liên quan. Yêu cầu hiểu biết về thị trường của doanh nghiệp là xác đáng.
Thị trường của doanh nghiệp thông thường được phân thành thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào liên quan đến khả năng và các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, thị trường đầu ra liên quan trực tiếp đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Để nhận biết rõ hơn, người ta thường mô tả thị trường đầu ra của doanh nghiệp bằng cách sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp một số tiêu thức cơ bản nh sản phẩm, địa lý và khách hàng.
Theo tiêu thức sản phẩm, thị trường của doanh nghiệp thường được xác định theo ngành hàng ( dòng sản phẩm ) hay nhóm hàng mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. Khi xem xét theo tiêu thức địa lý, thị trường chính là phạm vi không gian mà doanh nghiệp có thể thoả mãn được. ở cấp độ rộng hẹp khác nhau mà thị trường của doanh nghiệp được chia thành thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. Tiếp đó có thể phân chia thành những khu vực nhỏ hơn nh : thị trường xuất khẩu có thể được phân chia thành thị trường châu lục, thị trường khu vực. Việc mô tả thị trường theo 2 tiêu thức trên vẫn ở mức khái quát cao và thường thích hợp với doanh nghiệp. Điều này có thể dẫn đến việc bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh cũng như cách thức ứng xử của doanh nghiệp không phù hợp với thị trường do thông tin dễ bị sai lạc, thiếu chính xác. Vì vậy sử dụng tiêu thức khách hàng với nhu cầu của họ sẽ phần nào chính xác hơn vì nó cho phép doanh nghiệp xác định cụ thể nhóm khách hàng ( bao gồm hiện tại và tiềm năng ) mà doanh nghiệp hướng tới để thoả mãn. Lúc này doanh nghiệp có thể quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của các nhóm khách hàng riêng biệt, từ đó hình thành nên thị trường thích hợp - những nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có khả năng chinh phục.
Khi đó “ Thị trường có thể được hiểu là một nhóm khách hàng tiềm năng với các nhu cầu tương tù ( giống nhau ) và những người bán đưa ra những sản phẩm khác nhau với những cách thức khác nhau để thoả mãn những nhu cầu đó “.
Trên thực tế, để xác định thị trường , doanh nghiệp nên kết hợp cả 3 yếu tố trên. Trong đó tiêu thức khách hàng được dùng làm tiêu thức chủ đạo, tiêu thức sản phẩm để chỉ rõ cách thức cụ thể mà doanh nghiệp đưa ra phục vụ khách hàng và tiêu thức địa lý để giới hạn phạm vi không gian mà doanh nghiệp có thể thoả mãn.
Vì vậy thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chính là thị trường bên ngoài biên giới quốc gia, mà ở đó doanh nghiệp cùng những người bán khác cạnh tranh với nhau bằng những sản phẩm khác nhau, phương thức khác nhau trong quá trình hướng đến việc thoả mãn những nhu cầu tương tự nhau của nhóm khách hàng nước ngoài tiềm năng.
Tóm lại, dù xét dưới góc độ nào ta đều thấy rằng thị trường bao giê cũng phải có các yếu tè :
- Thứ nhất : phải có khách hàng ( người mua hàng ) và không nhất thiết phải gắn với địa điểm nhất định.
- Thứ hai : Khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn.
- Thứ ba : Khách hàng phải có khả năng thanh toán cho việc mua hàng.
1.2. Phân loại thị trường xuất khẩu :
Đối với doanh nghiệp việc phân loại thị trường là cần thiết. Dưới các góc độ nhìn nhận khác nhau doanh nghiệp chia toàn bộ thị trường của mình thành các nhóm nhỏ hơn có một hay một số đặc tính giống nhau rồi từ đó đưa ra phương thức kinh doanh phù hợp. Có nhiều cách phân loại thị trường khác nhau.
*Căn cứ vào mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với khách hàng, ta có thị trường xuất khẩu trực tiếp và thị trường xuất khẩu gián tiếp. Thị trường xuất khẩu trực tiếp là thị trường mà tại đó doanh nghiệp trực tiếp tiến hành hoạt động xuất khẩu vào thị trường mà không phải qua các trung gian xuất nhập khẩu. Còn nếu khi doanh nghiệp không có quyền hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp thì có thể thông qua các trung gian nh hãng xuất khẩu trong nước, đại lý, hiệp hội xuất khẩu, .... Lóc này doanh nghiệp phải trả một khoản tiền cho trung gian xuất khẩu gọi là phí uỷ thác.
*Căn cứ vào thời gian thiết lập mối quan hệ với khách hàng ta có thị trường xuất khẩu truyền thống và thị trường xuất khẩu mới. Thị trường xuất khẩu truyền thống là thị trường mà doanh nghiệp đã từng có quan hệ cộng tác trong một thời gian dài. Thông thường đối với những bạn hàng truyền thống, doanh nghiệp thường có những ưu đãi như dành sự ưu tiên mua hàng hay bán cho khách hàng. Còn thị trường mới là thị trường doanh nghiệp mới phát triển được, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường mới thường nhỏ. Những hợp đồng đặt hàng đầu tiên thường mang tính chất thăm dò. Nếu doanh nghiệp tạo được một hình ảnh tốt đối với khách hàng thì sẽ có cơ sở để mở rộng quan hệ buôn bán.
* Căn cứ vào hình thức sản xuất hàng xuất khẩu phân chia thành thị trường xuất khẩu hàng gia công và thị trường xuất khẩu hàng tự doanh.
Thị trường xuất khẩu hàng gia công là trường hợp hàng xuất đi dưới dạng hàng gia công. Doanh nghiệp xuất là bên nhận gia công, khách hàng là bên đặt gia công. Doanh nghiệp sẽ nhận toàn bộ hoặc một phần nguyên vật liệu cùng các tài liệu kỹ thuật từ đối tác rồi tiến hành sản xuất theo yêu cầu đã kỹ kết. Sau đó, doanh nghiệp giao thành phẩm cho bên đặt và nhận tiền thù lao gia công. Thực hiện phương thức kinh doanh này, doanh nghiệp không phải lo lắng về khâu tiêu thụ sản phẩm, độ rủi ro thấp nhưng thu nhập thu được không cao vì phí gia công thường thấp.
Thị trường xuất khẩu hàng tự doanh : mặt hàng xuất kẩu do doanh nghiệp tự sản xuất hoặc tự thu mua rồi xuất ra thị trường .
* Căn cứ vào mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp , doanh nghiệp có thể phân chia thành thị trường xuất khẩu hàng nông sản, thị trường xuất khẩu hàng thủ công, thị trường xuất khẩu hàng may mặc, ....
* Căn cứ mức độ hạn chế xuất khẩu có thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.
Hạn ngạch là quy định của nhà nước về số lượng, chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu với mục đích hạn chế xuất nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Thị trường nhập khẩu có thể áp dụng “ hạn chế xuất khẩu tình nguyện “ đòi hỏi quốc gia xuất khẩu chỉ được xuất sang nước mình một lượng hàng nhất định. Muốn xuất sang thị trường đó, doanh nghiệp cần phải xin hoặc mua hạn ngạch, xuất hàng theo hạn ngạch được cấp. Và khi đó thị trường này được gọi là thị trường có hạn ngạch.
Đối với thị trường phi hạn ngạch, doanh nghiệp có thể xuất hàng với số lượng không giới hạn, tuỳ theo khả năng của mình.
* Căn cứ vào mức độ quan trọng của thị trường người ta chia thành thị trường xuất khẩu chính ( thị trường trọng điểm ) thị trường xuất khẩu phụ.
Thị trường xuất khẩu chính là thị trường mà kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp sang đó chiếm tỷ trọng là chủ yếu. Nếu doanh nghiệp dùa chủ yếu vào một thị trường thì dễ gặp rủi ro vì bất cứ một thay đổi nào trên thị trường này cũng ảnh hưởng mạnh tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp trong quá trình hoạt động phải đa dạng hoá thị trường kinh doanh bằng cách mở những thị trường mới, tăng thị phần trên những thị trường xuất khẩu phụ.
* Căn cứ vào vị trí địa lý thị trường được phân ra theo khu vực, theo nước như thị trường EU, thị trường Bắc Mỹ, thị trường Nhật, thị trường Đông Nam á, thị trường Trung Quốc, ....Việc phân chia thị trường theo lãnh thổ, khu vực là hết sức quan trọng vì những nước có vị trí địa lý gần nhau thường có nét tương đồng về thị hiếu, tập quán tiêu dùng, kinh doanh. Việc phân chia đúng sẽ góp phần sử dụng hiệu quả các chính sách, giảm được các chi phí không cần thiết.
2 Đặc điểm các yếu tố cấu thành thị trường xuất khẩu :
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã mở rộng phạm vi hoạt động của
mình bằng cách xuất khẩu các sản phẩm ra thị trường thế giới. Thông qua cách này, doanh nghiệp có thể giải quyết được tình hình khó khăn tại thị trường nội địa, tìm được các khách hàng mới và tăng được lợi nhuận. Còng nh thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp cũng bao gồm các yếu tố cung cầu, giá cả và cạnh tranh, tuy nhiên chúng biến động rất phức tạp do quy mô thị trường rất rộng lớn và có rất nhiều yếu tố khác nhau tác động.
Cầu là yếu tố người mua hay tiêu thụ trên thị trường. Đó là nhu cầu có khả năng thanh toán, có đồng tiền đảm bảo.
Cầu về một loại hàng hoá trên thị trường xuất khẩu thường rất lớn. Phần lớn người nhập khẩu là những nhà sản xuất hoặc kinh doanh thương mại - người tiêu thụ trung gian - nên khối lượng mua lớn. Nhu cầu của họ về một loại sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào giá cả của bản thân mặt hàng đó mà còn phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của họ được mở rộng hay thu hẹp. Mặt khác, do khoa học kỹ thuật phát triển, rất nhiều sản phẩm có khả năng thay thế lẫn nhau ra đời. Các sản phẩm này liên quan trực tiếp đến vòng đời và nhu cầu về mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Khi giá một mặt hàng tăng lên các nhà nhập khẩu sẽ xem xét khả năng thay thế bằng những sản phẩm khác có mức giá thấp hơn. Nhu cầu về sản phẩm trên các thị trường xuất khẩu nhiều khi rất khác nhau do mỗi quốc gia, mỗi khu vực có các yếu tố văn hoá xã hội truyền thống, tập quán tiêu dùng khác nhau, có trình độ phát triển khác nhau. Để đáp ứng nhu cầu phong phú và biến đổi không ngừng, các nhà sản xuất nội địa, các nhà xuất khẩu từ nhiều quốc gia đưa ra một khối lượng lớn các sản phẩm tạo nên yếu tố cung. Trên thị trường xuất khẩu, số lượng các nhà cung ứng là rất lớn, vì vậy mức độ cạnh tranh ở đó rất gay gắt. Cạnh tranh với nhau các nhà doanh nghiệp có thể lùa chọn hình thức cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm hoặc dịch vụ. Đối với những nước có trình độ công nghệ cao, các biện pháp cạnh tranh tập trung vào yếu tố sản phẩm, chất lượng sản phẩm. Trong khi đó các nước đang phát triển nh Việt Nam năng lực sản xuất còn kém nên chủ yếu cạnh tranh bằng giá cả.
Giá cả thị trường được hình thành thông qua sự cân bằng về cung cầu. Tuy nhiên có một số quốc gia với lợi thế về thiên nhiên, về công nghệ sản xuất mà nắm giữ một khối lượng cung lớn. Các quốc gia này có thể tác động đến giá cả thị trường xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lượng cung của mình. Còn các nước, các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, khi tham gia thị trường thế giới chỉ có thể chấp nhận mức giá đã hình thành và nhiều khi còn bị đối tác Ðp giá..
Nh vậy kinh doanh trên thị trường ngoài nước, doanh nghiệp có thể gặp những thuận lợi nh cầu về hàng hoá đa dạng và lớn, khai thác được các lợi thế cạnh tranh, tận dụng công suất thừa. Nhưng bên cạnh đó doanh nghiệp cũng sẽ gặp những khó khăn đặc biệt về cạnh tranh. Ưu thế chỉ thuộc về những doanh nghiệp có qui mô sản xuất lớn với máy móc thiết bị hiện đại hoặc được hươngr các chế độ ưu đãi về thuế suất. Dó đó với những doanh nghiệp có tiềm lực còn yếu nh các doanh nghiệp Việt Nam thì để giữ vững phần thị trường đang có và mở rộng thị trường , các doanh nghiệp Việt Nam cần phải hợp sức nhau lại tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế.
3. Vai trò của thị trường xuất khẩu đối với doanh nghiệp :
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm trong quá trình kinh doanh. Đó là môi trường của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó cũng là mục tiêu mà doanh nghiệp mong muốn xâm nhập và chiếm giữ càng nhiều càng tốt. Thị trường xuất khẩu cũng là một bộ phận trong thị trường nói chung của doanh nghiệp do đó nó cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
3.1. Thị trường xuất khẩu ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp :
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành kinh doanh đều có mục tiêu là lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu đó, doanh nghiệp buộc phải thực hiện tốt vấn đề tiêu thụ sản phẩm mà thị trường là yếu tố then chốt. Số lượng sản phẩm tiêu thụ càng nhiều, khả năng phát triển của doanh nghiệp càng cao, nếu thị trường với số lượng nhu cầu hướng vào doanh nghiệp càng lớn và ngược lại. Do vậy, thị trường xuất khẩu chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng quan trọng, thậm chí là quyết định, nhất là đối với những doanh nghiệp hướng về xuất khẩu hoặc gặp nhiều khó khăn do thị trường nội địa đã bão hoà hoặc có sức mua thấp.
3.2. Thị trường xuất khẩu phản ánh tình hình kinh doanh của doanh nghiệp :
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Chính vì thế tình hình kinh doanh hàng hoá đều được thể hiện trên thị trường. Nhìn vào thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp, ta có thể tấy tình hình phát triển, mức độ tham gia thị trường quốc tế của doanh nghiệp cũng như quy mô sản xuất, kinh doanh và dự đoán được khả năng phát triển trong thời gia tới.
3.3. Thị trường xuất khẩu trực tiếp điều tiết, hướng dẫn việc sản xuất kinh doanh những mặt hàng xuất khẩu.
Để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải giải quyết được mục tiêu trung gian : thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng để từ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy việc quyết định cung ứng sản phẩm gì, bằng phương thức như thế nào, cho ai là do nhu cầu của thị trường quyết định. Doanh nghiệp khi kinh doanh trên thị trường quốc tế không thể cứ đưa ra những sản phẩm dù rất thành công trên thị trường nội địa ra nước ngoài là đạt được kết quả tốt. Chính khách hàng trên thị trường xuất khẩu sẽ định hướng cho những chính sáh về sản phẩm xuất khẩu cùng với chính sách về giá cả, chất lượng, những hoạt động xúc tiến, ... Từ đó doanh nghiệp sẽ phải hợp lý hoá các hoạt động sản xuất thu mua hàng của mình và đề ra được các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu trong tương lai. Nh vậy thị trường tác động đến từng quyết định kinh doanh của doanh nghiệp và các doanh nghiệp muốn đạt được thành công đều phải thích ứng với thị trường.
3.4. Thị trường xuất khẩu là nơi kiểm tra, đánh giá các chương trình kế hoạch, quyết định kinh doanh của doanh nghiệp :
Thông qua tình hình tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp có thể thấy được những ưu nhược điểm của các quyết định, các kế hoạch kinh doanh ( các mặt đã đạt được và những mặt còn tồn tại ). Từ đó có những điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế.
II - Sù cần thiết và nội dung phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp
Sự cần thiết của việc phát triển thị trường của doanh nghiệp :
Khái niệm phát triển thị trường :
Trong cơ chế thị trường, bên cạnh doanh nghiệp còn có một số Công ty khác cùng hướng tới phục vụ một nhóm khách hàng nào đó. Sản phẩm của doanh nghiệp thường chiếm được một thị phần nhất định thị trường nhất định tương ứng với một lượng khách hàng và thị phần này luôn luôn biến đổi. Để đảm bảo cho việc phát triển vững chắc, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến việc mở rộng thị trường tức là giữ được phần thị trường đã có và xâm nhập, phát triển thị trường mới.
Phát triển thị trường của doanh nghiệp chính là việc khai thác tốt thị trường hiện tại, đưa những sản phẩm hiện tại của doanh nghiệp vào tiêu thụ ở những thị trường mới và nghiên cứu, dự đoán thị trường rồi đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng được cả nhu cầu của thị trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp có ý định thâm nhập.
Sự cần thiết :
Nền kinh tế thị trường hết sức năng động và khốc liệt. Các doanh nghiệp bị cuốn trong vòng quay không ngừng của sự phát triển, mà ở đó bất cứ một doanh nghiệp nào không theo kẹp sự thay đổi của thị trường đều có thể bị đào thải. Vì vậy các doanh nghiệp không thể dừng lại hay bằng lòng với thành quả hiện tại. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, doanh nghiệp để có thể tồn tại được thì phải cố gắng tiết kiệm các yếu tố đầu vào, khai thác triệt để các nguồn thu, tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh hấp dẫn mà thị trường đem lại. Và phát triển thị trường là một yếu tố quan trọng để đáp ứng được đòi hỏi vươn lên trong cạnh tranh.
Trong nhiều trường hợp như cạnh tranh trong nước quá gay gắt hoặc nhu cầu nội địa quá nhỏ bé thì việc cung ứng các sản phẩm ra thị trường quốc tế có thể thu được hiệu quả hơn. Phát triển thị trường xuất khẩu sẽ đem lại cho doanh nghiệp những khả năng khai thác lợi thế, so sánh, lợi dụng các cơ hội hấp dẫn trên thị trường.
Phần thị trường có ảnh hưởng tích cực đến mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Thị trường càng lớn thì doanh nghiệp càng có khả năng tiêu thụ được sản phẩm. Do vậy phát triển thị trường sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình.
Trong thực tế, tiềm năng của mỗi thị trường không phải là vô hạn ngay cả khi qui mô dân số là rất lớn vì nhu cầu thì luôn thay đổi. Bởi vậy sau một thời gian kinh doanh nếu doanh nghiệp không có thay đổi gì về sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến, ... thì thị phần của doanh nghiệp chắc chắn sẽ giảm xuống. Cho nên phát triển thị trường sẽ làm cho doanh nghiệp có vị thế ngày càng ổn định hơn, tạo điều kiện cho sự phát triển trong tương lai.
Phát triển là quy luật của mọi hiện tượng kinh tế - xã hội. Chỉ có phát triển thì doanh nghiệp mới tồn tại vững chắc, phù hợp với xu thế chung của thời đại và phát triển thị trường chính là mục tiêu, chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp.
2. Nội dung phát triển thị trường xuất khẩu
Mỗi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đều mong muốn phát triển được thị trường của mình để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, đạt được mục tiêu về lợi nhuận, an toàn và thế lực. Để thực hiện được mong muốn này, doanh nghiệp có thể tiến hành theo ba hướng sau :
- Phát triển thị trường theo chiều rộng.
- Phát triển thị trường theo chiều sâu.
- Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Phát triển thị trường theo chiều rộng :
Phát triển thị trường theo chiều rộng tức là doanh nghiệp cố gắng mở rộng phạm vi thị trường , tạo ra được những khách hàng mới. Phương thức này thường được các doanh nghiệp sử dụng khi thị trường hiện tại đang có xu hướng bão hoà hoặc khi thị trường mà doanh nghiệp hướng đến còn có nhiều tiềm năng để khai thác. Khi đó việc tạo ra kênh phân phối mới có hiệu quả, cho phép doanh nghiệp tăng được doanh thu. Và chắc chắn rằng việc phát triển thị trường mới sẽ khả thi nếu nó phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
- Xét về mặt địa lý : Phát triển thị trường theo chiều rộng chính là tăng cường sự hiện diện của doanh nghiệp tại các địa bàn mới bằng các sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp đưa các sản sản phẩm của mình sang các quốc gia khác, châu lục khác để tăng thêm lượng khác