Trong thời gian hiện nay, tình hình kinh tế chính trị thế giới diễn biến khá phức tạp và nhanh chóng. Sự phát triển của phân công lao động quốc tế cùng với những thành tựu mới của cách mạng khoa học-công nghệ đưa tới sự biến đổi sâu sắc về kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng mạnh mẽ thì không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển được trong sự co cụm khép kín đối với thế giới bên ngoài mà phải có liên kết kinh tế.
32 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong thời gian hiện nay, tình hình kinh tế chính trị thế giới diễn biến khá phức tạp và nhanh chóng. Sự phát triển của phân công lao động quốc tế cùng với những thành tựu mới của cách mạng khoa học-công nghệ đưa tới sự biến đổi sâu sắc về kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng mạnh mẽ thì không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển được trong sự co cụm khép kín đối với thế giới bên ngoài mà phải có liên kết kinh tế.
Theo xu hướng này thì trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức liên kết kinh tế quốc tế ở các cấp độ khác nhau. Chính vì vậy mà ngày 28/7/1995 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của hiệp hội các quốc gia Đông Nam A (Asean) và ngày 1/1/1996 Việt Nam trở thành thành viên của khu vực mậu dịch tự do Asean(ATFA). Có thể nói việc tham gia AFTA là bước đầu tiên khởi động đối với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng .
Tuy nhiên Việt Nam mới chỉ đang trong quá trình hội nhập vào AFTA cho nên những cơ hội mới, những lợi ích đạt được cũng như những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam cần phải được xem xét nghiên cứu trong phạm vi khuôn khổ và phương pháp luận rộng rãi và thống nhất. Việc phân tích những ảnh hưởng này cần được bắt đầu bằng việc xem xét bản chất của các tổ chức thương mại khu vực nói chung cũng như các đặc điểm vị trí tương đối của các nước thành viên trong khối. Vì những lý do trên và sự mong muốn được học hỏi thêm những kinh nghiệm quý báu trong thực tiễn em đã chọn đề tài: "Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA".
Để hoàn thành được đề tài này em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Trọng Hà cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Thương Mại đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài. Tuy nhiên đề tài còn nhiều bất cập, không tránh khỏi những thiếu sót em rất m ong được sự góp ý chân thành của các thầy cô để đề tài được đi vào thực tiễn .
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần I. Khái quát chung về khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - AFTA
1. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA.
ASEAN (asscociation of Southeast asian Nation), hiệp hội các quốc gia Đông Nam á được thành lập từ năm 1976 với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị, khoa học, xã hội. Đến nay, ASEAN đã phát triển lớn mạnh với 10 thành: Brunei, Indonesia, Malaysia, Phillipin, Singapore, Thái lan, Việt Nam, Campuchia, Lào và Mianmar. Tuy vậy là một khu vực kinh tế phát triển vào loại năng động nhất thế giới, vấn đề hợp tác kinh tế trong khu vực lại được ra đời khá muộn, năm 1992, 25 năm sau khi thành lập ASEAN.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng với kế hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực ưu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được các mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu vực mậu dich tự do AFTA hợp tác kinh tế giưã các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức mới.
Trước khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế hoạch hợp tác kinh tế khác nhau đó là.
Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP)
Kế hoạch kết hợp công nghiệp ASEAN (AIC) và kế hoạch kết hợp từng lĩnh vực (BBC)
Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế trên tuy đã thể hện cố gắng nhưng chỉ tác động đến một phần nhỏ trong thương mại nội bộ khối ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến sự không thành công này. Đó là sự yếu kém trong hoạch định kế hoạch, quản lý kém hiệu quả, trong nhiều trường hợp hoạt động của chính tổ chức phụ thuộc vào ý trí của Chính phủ chứ không phải vào nhu cầu khách quan của thị trường.
Tuy nhiên các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hướng tiến đến hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã được chú trọng hơn, quy luật thị trường dần được tuân thủ, các thủ tục liên quan được đơn giản hoá và một số trường hợp các thủ tục rườm rà đã được loại bỏ, mức ưu đãi (MOP) được tăng cường. Tuy không đạt được kết quản mong đợi nhưng các kế hoạch hợp tác kinh tế này thực sự là những bài học quý báu cho việc hợp tác kinh tế giữa các nước đang phát triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm từ những kế hoạch hợp tác kinh tế trước AFTA.
2. Mục tiêu chính của AFTA.
Việc thành lập AFTA năm 1992 là một mốc quan trọng trong lịch sử tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển về chất trong hợp tác thương mại: một tổ chức hợp tác kinh tế khu vực. AFTA được đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
Tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển của các thoả thuận thương mại khu vực (Regional trade arrangement - RTA) trên thế giới.
3. Công cụ thực hiện AFTA( CEPT).
Để thực hiện thành công khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN (ASEAN Economic Minister - AEM) đã quyết định ký kết Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff - CEPT) năm 1992. CEPT là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. CEPT gồm 10 điều khoản ký vào ngày 28/1/1992. Theo quyết định theo hiệp định CEPT việc cắt giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN đòi hỏi các thành viên phải xác định được 4 loại danh mục:
3.1 Danh mục cắt giảm thuế quan I.L (Inclusion List) bao gồm các hàng hoá sẽ cắt giảm thuế quan xuống 0-5% trong khoảng thời gian 10 năm. Các hàng rào cản phi thuế quan khác đối với danh mục này sẽ được bãi bỏ sau khi các quốc gia thành viên hoàn thành việc cắt giảm danh mục. I.L được chia làm hai lộ trình
Lộ trình cắt giảm bình thường (Normal track): cắt giảm thuế quan đối với hàng hoá có mức thuế thấp hơn 20% xuống còn từ 0-5% vào ngày 1/1/2001. Còn mặt hàng có mức thuế lớn hơn 20% sẽ cắt giảm xuống nhỏ hơn 20% vào ngày 1/1/2001 và giảm xuống còn từ 0-5% vào ngày 1/1/2003. Lộ trình này được quy định cho ASEAN6
Lộ trình cắt giảm nhanh (Fast track): đối với những mặt hàng có mức thuế nhỏ hơn 20% giảm xuống còn từ 0-5% vào ngày 1/1/1998 và đối với mặt hàng mức thuế lớn hơn 20% giảm xuống nhỏ hơn 20 vào ngày 1/1/2000 và giảm xuống còn từ 0-5% vào năm 2002.
3.2 Danh mục loại trừ tạm thời TEL (Temporary Exclution List) bao gồm các mặt hàng chưa tham gia ngay vào cắt giảm thuế quan vì tính cạnh tranh còn yếu, vì tầm quan trọng chiến lược hoặc là vì các mục tiêu khác của quốc gia. Tuy nhiên các mặt hàng này sẽ được đưa vào lộ trình cắt giảm bình thường thuộc danh mục I.L mỗi năm 20% và bắt đầu từ năm 1996. Đảm bảo ngày 1/1/2000 tất cả các mặt hàng thuộc danh mục lưu trữ tạm thời sẽ được chuyển vào danh mục thuế quan theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 (AEM).
3.3 Danh mục loại trừ hoàn toàn PEL (Permanent Exclution List) gồm các hàng hoá không tham gia vào lộ trình cắt giảm vì các lý do an ninh quốc phòng, bảo vệ sức khoẻ môi trường đạo đức xã hội và bảo vệ các giá trị nghệ thuật lịch sử, khảo cổ học.
3.4 Danh mục của hàng hoá nông sản chưa qua chế biến S.L (Senstive list) những hàng hoá nông nghiệp chưa qua chế biến tạm thời chưa được cắt giảm theo CEPT năm 1992. Danh mục này sẽ được đưa vào cắt giảm vào năm 2010.
Ngoài ra CEPT còn đưa ra một số biện pháp hỗ trợ AFTA bao gồm:
- Hợp tác trong lĩnh vực hải quan thông qua xây dựng một biểu thuế quan thống nhất, áp dụng thống nhất hệ thống trị giá hải quan (Custom valuction). Lập luồng xanh để thông quan nhanh hàng hoá trong khuôn khổ CEPT và thống nhất thủ tục tờ khai hải quan chung cho các nước thành viên đồng thời xuất bản sách hướng dẫn thủ tục hải quan.
- áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá và công nhận tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá.
- Việc cắt giảm thuế quan chỉ được áp dụng trong phạm vi thương mại nội bộ ASEAN với hàm lượng nội địa ASEAN ít nhất là 40%.
Công thức tính hàm lượng nội địa như sau
A: Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ nước không phải là thành viên ASEAN
B: Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào không xác định xuất xứ.
4. ảnh hưởng của AFTA đến các nước thành viên
AFTA có những ảnh hưởng khác nhau lên các nước thành viên khác nhau vì các nước này có trình độ phát triển không giống nhau. Các nước như Singapore và Malaisia, với trình độ phát triển của nền kinh tế cao hơn sẽ thấy tự tin hơn các nước khác khi thực hiện AFTA. Cũng chính hai nước này sẽ được lợi nhiều nhất từ AFTA. Những ảnh hưởng tới cấu trúc kinh tế, ảnh hưởng tới tính hấp dẫn với các luồng đầu tư trực tiếp của nước ngoài và ảnh hưởng tới khả năng tham gia vào thương mại quốc tế.
4.1. Về cấu trúc kinh tế.
Về nguyên tắc, mỗi nước thành viên đều phải tiến hành những sự điều chỉnh cần thiết để đối phó với mức độ cạnh tranh cao hơn từ các nước thành viên khác trong khu vực. Mỗi nước thành viên phải tận dụng triệt để các lợi thế tương đối của mình. Có lẽ tất cả các nước thành viên đều sẽ phải tổ chức lại nền kinh tế của mình. Họ sẽ buộc phải từ bỏ sản xuất một số mặt hàng nào đó để đi vào chuyên môn hoá một số mặt hàng khác. Có thể dự báo các dịch chuyển sau đây trong hoạt động công nghiệp của các nước ASEAN.
Đối với Indonesia, sẽ có sự tăng mạnh trong sản xuất các mặt hàng cần nhiều lao động và cần nhiều tài nguyên như dệt, may mặc, đồ gỗ, giấy và các sản phẩm giấy.
Đối với Malaisia, sản xuất trong các lĩnh vực cần tương đối nhiều lao động như đồ gỗ, quần áo có thể tăng lên. Sẽ có sự giảm đáng kể các sản phẩm cơ khí, chế tạo có hàm lượng vốn cao. Giảm mạnh nhất có thể xảy ra trong các ngành thực phẩm, giấy và sản phẩm giấy, đồ thuỷ tinh, các sản phẩm phi kim loại.
Đối với Philippines, sự tăng lên mạnh nhất thuộc về các ngành sản xuất cần nhiều vốn như các sản phẩm chế tạo phi kim loại, các máy điện và không điện. Sẽ giảm chút ít các sản phẩm gỗ và công nghiệp hoá học. ảnh hưởng đối với Philippines có thể nhỏ vì nước này không buôn bán nhiều với các nước ASEAN khác.
Đối với Singapore, các sản phẩm cần nhiều vốn, kỹ thuật sẽ tăng lên trong khi các ngành công nghiệp đòi hỏi sử dụng nhiều lao động sẽ giảm đáng kể.
Thái Lan có thể tăng đáng kể các sản phẩm của công nghiệp thực phẩm, tăng chút ít các sản phẩm điện, đồ da, sản phẩm kim loại và phi kim loại và có thể giảm các sản phẩm đồ gỗ, các máy móc không phải là máy điện, các sản phẩm của công nghiệp hoá chất.
Sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất nói trên sẽ tạo ra những khó khăn ngắn hạn, có thể rất gay gắt cho các nước thành viên kém phát triển. Những khó khăn có thể là nạn thất nghiệp cơ cấu tăng lên và nguồn thu của chính phủ giảm sút. Đổi lại, tất cả các nước thành viên sẽ cùng chia sẻ các lợi ích lâu dài là các nguồn lực sản xuất được sử dụng hiệu quả hơn, nền kinh tế trở lên năng động hơn. Người tiêu dùng tại tất cả các nước thành viên sẽ có thể mua hàng với giá rẻ hơn. Tuy vậy, có một sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu rằng, ảnh hưởng về cơ cấu của AFTA lên các nước thành viên là không đáng kể vì trao đổi thương mại trong nội bộ ASEAN chỉ chiếm khoảng 20% tổng số trao đổi thương mại của ASEAN.
Bảng 1. Các danh mục của CEPT tính đến thời điểm 2001
của các nước ASEAN
ASEAN 6
I.L
TEL
PEL
SL
ồ
Brunei
6284
0
202
6
6492
Indonexia
7190
21
68
4
7283
Malaysia
9654
218
53
83
10.008
Philippines
5622
6
16
50
5694
Singapore
5821
0
38
0
5859
Thái Lan
9104
0
0
7
9111
ồ ASEAN6
%
43.675
98,26%
1245
0.55
377
0.85
150
0.34
44.447
100
I.L
TEL
PEL
SL
ồ
Campuchia
3115
3523
134
50
6822
Lao
1673
1716
74
88
3551
Myanma
2984
2419
48
21
5472
Việt Nam
4233
757
196
51
5237
ồ ASEAN mới
%
12.005
59,94
8.415
39,92
452
2,14
210
1
21.082
100
4.2. Về đầu tư trực tiếp.
FDI là một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của các nước ASEAN. Việc thành lập AFTA sẽ tăng tính hấp dẫn của ASEAN nói chung đối với FDI. Nguyên nhân chính ở đây là AFTA sẽ tạo ra thị trường rộng lớn cho các nhà sản xuất, cho phép họ tận dụng các ưu thế của kinh tế theo quy mô. AFTA cũng sẽ tạo điều kiện để các nhà sản xuất tối ưu hoá chu trình sản xuất của họ bằng việc phân công lao động giữa các thành viên AFTA. Một mảng sản xuất quốc tế bên trong ASEAN bao gồm các đơn vị sản xuất đặt tại các vị trí khác nhau dựa vào sự gần gũi về địa lý và khác nhau về giá thành sẽ là kết quả của sự phối hợp trong AFTA. Thương mại nội bộ một ngành công nghiệp sẽ tăng lên. Đây sẽ là cơ hội cho một số ngành công nghiệp công nghệ cao phát triển ở Việt Nam bất chấp một số dự báo bi quan dựa trên cách nhìn tĩnh rằng các ngành công nghệ sẽ bị thiệt hại vì chúng phần lớn cần nhiều vốn trong khi ta lại thiếu vốn và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, để tạo dựng thành công một mảng sản xuất nội bộ, các nước ASEAN còn phải nỗ lực nhiều do trình độ quản lý còn yếu kém và còn thiếu kinh nghiệm trong việc phối hợp giữa các quốc gia với nhau.
FDI có thể chia thành hai nhóm chính: đầu tư trên cơ sở tìm kiếm thị trường và đầu tư trên cơ sở tận dụng lợi thế tương đối. Đầu tư trên cơ sở tìm kiếm thị trường là nhằm tìm kiếm những thị trường mới. Loại đầu tư này thường phổ biến tại các nước theo chiến lược phát triển thay thế nhập khẩu (ISI). Các nước này thường tận dụng các hàng rào thuế quan cao để bảo hộ thị trường trong nước. Để chiếm lĩnh thị trường của các nước đó và tránh hàng rào thuế quan, các công ty nước ngoài buộc phải đầu tư trực tiếp để sản xuất bên trong các nước này. Đầu tư trên cơ sở tận dụng các lợi thế tương đối nhằm tranh thủ các lợi thế tương đối của các nước nhận đầu tư. Loại đầu tư này thường phổ biến tại các nước theo chiến lược phát triển hướng vào xuất khẩu (ESI). Các nước này theo đuổi một nền kinh tế mở với hàng rào thuế quan thấp nên điểm hấp dẫn chính của họ với đầu tư nước ngoài là các lợi thế tương đối mà họ cung cấp cho các nhà đầu tư. Tiềm năng lớn nhất của AFTA trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là thuộc về loại đầu tư này.
AFTA sẽ có những ảnh hưởng tích cực trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng điều đó không có nghĩa rằng ảnh hưởng tích cực sẽ như nhau tại tất cả các nước thành viên. Những nước có cơ sở hạ tầng tốt hơn, chất lượng lao động cao hơn và thể chế kinh tế thuận lợi hơn sẽ thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Vì thế, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước thành viên sẽ không kém phần quyết liệt.
4.3. Về khả năng tham gia vào thương mại quốc tế
Như đã nói ở trên, nguyên nhân chính của thành công về kinh tế của các nước ASEAN là chính sách phát triển hướng ra bên ngoài. Vì lý do đó, các nước ASEAN không thể chở thành nước theo chủ nghĩa bảo hộ. Các nước này muốn dùng AFTA để "tăng cường sức mạnh cạnh tranh của ASEAN, như một cứ điểm sản xuất để thâm nhập vào thị trường thế giới" (Ban thư ký của ASEAN, 1993). Cùng với sự tăng lên của chủ nghĩa khu vực, mối đe doạ của sự chia cắt nền kinh tế thế giới là niềm hy vọng rằng AFTA có thể bảo vệ tốt hơn các quyền lơị của ASEAN cũng như khuyếch trương tiếng nói của nó trên các diễn đàn quốc tế. Tóm lại, AFTA sẽ được xem như một công cụ để các nước ASEAN hoà nhập với thế giới. "Tự do thương mại trong AFTA sẽ là sự luyện tập ở cấp độ khu vực trước khi ASEAN tham gia vào hệ thống thương mại đa biên ở cấp độ toàn cầu.
Bảng 2. Tổng thương mại các nước ASEAN (1999-2000)
Đơn vị: USD
Nước
Nhập khẩu
Xuất khẩu
1999
2000
Thay đổi
1999
2000
Thay đổi
Giá trị
%
Giá trị
%
Brunei
2.304,7
2.169,1
(171,5)
(7,3)
1.720,4
1.067,6
(652,7)
(37,9)
Indonesia
48.665,5
62.124
13.458,6
27,7
24.003,3
33.514,8
9.511,5
39,6
Malaysia
84.287,9
1.193,8
13.866,6
16,5
63.677,8
79.647,5
15.696,6
25,1
Myanma
738,0
38.078,2
455,8
61,8
1.883
2.219,4
336,4
17,9
Philippines
35.036,9
138.352,5
3.041,4
8,7
30.742,5
31.387,4
644,9
2,1
Singapore
114.625,1
69.254,1
23.727,3
20,7
110.998
134.680,1
23.682,2
21,3
Thái Lan
56.110,9
14.308
13.143,2
23,4
48.318
61.905,8
13.587,8
28,1
Việt Nam
11.541
423.634,2
2.767
24,0
11.742
15.635
3.893
33,0
Tổng
353.346
70.288,2
19,9
293.085
360.057,6
66.972,6
22,8
Bảng 3. Thương mại nội bộ ASEAN (1999 - 2000)
Nước
Nhập khẩu
Xuất khẩu
1999
2000
Thay đổi
1999
2000
Thay đổi
Giá trị
%
Giá trị
%
Brunei
375,1
639,5
264,4
70,5
895,6
534,4
(361,3)
(40,3)
Indonesia
8.278,3
10.883,7
2.605,4
31,5
4.783,6
6.781,2
1.997,6
41,8
Malaysia
21.885
24.408,6
2.523,6
11,5
12.412,8
15.934,8
3.522
28,4
Myanma
236,8
393,5
156,7
66,2
1.038,6
1.113,3
74,7
7,2
Philippines
4.989,1
5.982,6
993,4
19,9
4.461
4.955,4
494,4
11,1
Singapore
29.269,3
37.784
8.514,6
29,1
26.241
33.291,3
7.050,3
26,9
Thái Lan
9.901,9
15.099,7
5.197,8
52,5
7.987,4
10.475,9
2.488,5
31,2
Việt Nam
2.516,3
2.613
96,7
3,8
3.290,9
4.519,4
1.228,5
37,3
Tổng
77.451,8
97.804,6
20.352,8
26,3
61.110,9
77.605,7
16.494,8
27
Phần 2. những ảnh hưởng của việc tham gia AFTA
đến thương mại Việt Nam
I. Nền kinh tế Việt Nam trước khi tham gia AFTA.
Từ những năm đầu của thập niên 90 sau khi khối SEV giải tán và Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới với chính sách mở cửa và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN ngày càng được cải thiện và phát triển. Các nước thành viên ASEAN trở thành những bạn hàng quan trọng trong buôn bán ngoại thương của Việt Nam.
Thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN trong mấy năm vừa qua đã phát triển với tốc độ tăng trưởng cao mặc dù mức tăng trưởng trong thời kỳ này còn đột biến và thất thường. Thời kỳ 1991 - 1996, thương mại Việt Nam - ASEAN có mức tăng trưởng bình quân là 26%, chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; thời kỳ 1992 - 1994 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore tăng 50% (200 triệu USD), sang các nước ASEAN tăng 67% (630 triệu USD), kim ngạch xuất khẩu sang HongKong giảm 35% (100 triệu USD). Bắt đầu tư năm 1993, HongKong đã giảm mạnh vị trí đầu cung trung chuyển hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam, và phần nào vị trí này đã chuyển sang Singapore.
Trong những năm qua hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN vào thị trường Việt Nam tuy vẫn còn mang tính chất thâm nhập thị trường nhưng có nhiều mặt hàng đã bán rẻ, tạo lập được tập quán tiêu dùng, trước hết phải kể tới xe máy nhập từ Thái Lan, hàng điện, điện tử và điện lạnh nhập từ Singapore, Malaisia, phân bón từ Indonesia...
Trong thương mại với các nước ASEAN, việc xuất khẩu và nhập khẩu thường hay tập trung vào một nhóm các mặt hàng nhất định, chiếm một tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch. Chẳng hạn trong năm 1994 chỉ hai mặt hàng là sợi (20 triệu USD) và urê (10 triệu USD) đã chiếm gần 50% kim ngạch nhập khẩu từ Malaysia, cũng trong năm 1994, xe máy nhập thẳng từ Thái Lan là 92 triệu USD trong tổng kim ngạch là 226 triệu USD, chiếm 41%, nếu tính của 91 triệu USD được nhập qua đường Lào thì chiếm khoảng 58% tổng giá trị nhập khẩu từ Thái Lan. Năm 1994 gạo chiếm 34 triệu USD (55%) trong tổng kim ngạch 64 triệu USD xuất khẩu của Việt Nam sang Malaysia.
Mặc dù thương mại Việt Nam và các nước ASEAN đã tăng trưởng với một tốc độ lớn trong thời gian vừa qua, tuy nhiên các mối quan hệ thương mại và giao lưu hàng hoá mới chỉ đang trong quá trình hình thành và đối với rất nhiều các mặt hàng, những mối quan hệ này còn rất mỏng manh và dễ bị phá vỡ.