Kinh doanh cà phê là một hoạt động kinh tế có vị trí quan trọng trên phạm vi toàn thế giới. Theo tổ chức cà phê thế giới (ICO) và Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), giá trị xuất khẩu của CP trên thế giới đã vượt lên so với chè, cao su, ca cao, gạo,. hay bất kỳ một sản phẩm nông nghiệp nào khác. Đối với các nước đang phát triển, cà phê là một mặt hàng có giá trị thương mại rất lớn, tạo ra nhiều việc làm và ngoại tệ mạnh.
74 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2002-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Kinh doanh cà phê là một hoạt động kinh tế có vị trí quan trọng trên phạm vi toàn thế giới. Theo tổ chức cà phê thế giới (ICO) và Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), giá trị xuất khẩu của CP trên thế giới đã vượt lên so với chè, cao su, ca cao, gạo,... hay bất kỳ một sản phẩm nông nghiệp nào khác. Đối với các nước đang phát triển, cà phê là một mặt hàng có giá trị thương mại rất lớn, tạo ra nhiều việc làm và ngoại tệ mạnh.
ở Việt Nam, sản xuất và xuất khẩu cà phê là nguồn thu ngoại tệ quan trọng trong các loại nông sản xuất khẩu. Sản xuất và xuất khẩu phát triển đã tạo ra việc làm cho người lao động, góp phần ổn định sản xuất, cải thiện đời sống và tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên trong những năm qua, ngành cà phê ngoài những thành quả đáng ghi nhận góp phần đem lại nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất nước. Việc sản xuất và xuất khẩu vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc, chưa tận dụng có hiệu quả nguồn lực của đất nước để phát triển sản xuất và xuất khẩu, các chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước chưa đồng bộ, chưa hợp lý nên dẫn đến hiệu quả sản xuất và xuất khẩu chưa cao, chưa tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho ngân sách, chưa có tác dụng phát triển vững chắc ngành cà phê Việt Nam.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của sản xuất và xuất khẩu cà phê đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, kết hợp với những kiến thức kinh tế cơ bản đã được học ở trường ĐH Kinh tế Quốc dân, cùng với thực tiễn khách quan trong thời gian thực tập tại Vụ Kế hoạch - Thống kê, Bộ Thương mại, em đã chọn đề tài:
“Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2002-2010”
Mục đích của Chuyên đề là, trên cơ sở tổng kết những vấn đề lý luận về hoạt động ngoại thương, phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam thời gian vừa qua, nhằm tìm ra những mặt mạnh và những mặt còn yếu kém cùng với nguyên nhân của nó để đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê giai đoạn 2002-2010.
Nội dung của báo cáo chia làm ba phần chính như sau:
Phần thứ nhất: Vai trò của xuất khẩu và xuất khẩu cà phê trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam.
Phần thứ hai: Thực trạng hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian qua.
Phần thứ ba: Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 2002-2010.
Trong quá trình thực hiện bài viết này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, chú trong Vụ KH-TK, Bộ Thương mại đặc biệt là thầy giáo, Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô, cùng các chuyên viên trong Vụ KH-TK đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành tốt bài viết này.
phần thứ nhất
vai trò của xuất khẩu và xuất khẩu cà phê trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam
I-/ Cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương.
1-/ Khái niệm về hoạt động ngoại thương.
Ngoại thương là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại ra đời từ rất sớm, ban đầu chỉ là sự trao đổi rất đơn giản dưới hình thức hàng đổi hàng giữa các thương nhân của các quốc gia khác nhau. Điều này thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Hoạt động thương mại phát triển cùng với sự phát triển của văn minh loài người. Từ hình thức trao đổi giản đơn đã phát triển hình thành hoạt động thương mại tinh vi so với hoạt động thương mại trong nước thì hoạt động thương mại quốc tế không chỉ bó hẹp trong nội bộ kinh tế mà còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia, gắn liền với việc sử dụng đồng tiền quốc tế. Hoạt động buôn bán diễn ra bất chấp sự bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quá, văn hoá xã hội,...
Hoạt động ngoại thương có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia kinh nghiệm cho thấy chưa có một nước nào có nền kinh tế phát triển mà lại không dựa vào hoạt động ngoại thương. Một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập mà tồn tại và phát triển. Bằng khả năng và nguồn lực của mình chúng ta không thể có tất cả những gì thật tốt. Đó chính là sự hạn chế về nguồn lực buộc chúng ta phải tiến hành mở cửa hội nhập với bên ngoài.
Ngoài ra, hoạt động thương mại còn làm tăng khả năng thương mại của một quốc gia. Chúng ta đều biết rằng, do điều kiện tự nhiên và xã hội mà mỗi quốc gia có những lợi thế riêng về tài nguyên thiên nhiên, về nhân lực, về vốn,... sự khác nhau này đã dẫn đến sự chênh lệch lớn trong chi phí sản xuất ra cùng loại sản phẩm và đây chính là nguyên nhân dẫn đến hoạt động thương mại giữa các nước với nhau theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Hơn thế ngoại thương phát triển góp phần mở rộng thị trường, phát triển thị hiếu của nhân dân thông qua việc trao đổi sản phẩm giữa các nước trên thế giới.
Qua phân tích trên ta có thể thấy, hoạt động ngoại thương là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc ngang giá, được thực hiện thông qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Trong đó hoạt động xuất khẩu được hiểu là việc mang những hàng hoá, dịch vụ bán ra nước ngoài để thu hút tiền hay hàng hoá về, còn hoạt động nhập khẩu là việc mang những hàng hoá và dịch vụ mua từ nước ngoài về được trả bằng tiền hay hàng hoá trong nước.
Hoạt động ngoại thương so với hoạt động kinh doanh buôn bán trong nước có những điểm khác biệt sau:
Một là, hoạt động ngoại thương là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Hàng hoá có thể di chuyển từ nước này qua nước khác nếu có nhu cầu. Hoạt động ngoại thương chịu sự quản lý và giám sát của các đơn vị hải quan, cửa khẩu của các quốc gia cùng tham gia kinh doanh.
Hai là, đối tượng tham gia vào hoạt động ngoại thương là những cá nhân, tổ chức có quốc tịch khác nhau.
Ba là, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên.
2-/ Cơ sở của hoạt động ngoại thương.
Ngày nay, hoạt động ngoại thương như là một yếu tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tất cả các nước đều tham gia vào hoạt động ngoại thương và đều có lợi vấn đề đặt ra là tại sao tất cả các nước tham gia vào hoạt động ngoại thương đều có lợi. Để xem xét vấn đề này chúng ta sẽ đi nghiên cứu các cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương.
2.1. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith.
Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối của A.Smith thì một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của nước mình. Đây là cách lý giải đơn giản nhất về nguyên nhân của hoạt động ngoại thương. Lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương là lợi ích thu được do sự chênh lệch về chi phí sản xuất giữa các quốc gia sản xuất cùng một loại sản phẩm nào đó, khi đó nước sản xuất có chi phí cao sẽ nhập khẩu sản phẩm đó từ nước có chi phí thấp hơn.
Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản phẩm có chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm có chi phí cao sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại lợi nhuận, người ta gọi điều này là sự bù đắp được được sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước. Ngày nay, đối với các nước đang phát triển việc khai thác lợi thế tuyệt đối, vẫn còn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm đặc biệt là tư liệu sản xuất với chi phí có thể chấp nhận được. Nguyên nhân dẫn đến tích luỹ thấp là do các nước đang phát triển còn phải nhập khẩu máy móc thiết bị. Vì vậy mà các khoản tiết kiệm chưa thể trở thành vốn đầu tư. Khi tiến hành nhập khẩu những máy móc thiết bị từ các nước phát triển, các nước đang phát triển sẽ khắc phục được những yếu kém của mình về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất cũng như những yếu kém về kiến thức công nghệ.
2.2. Lợi thế tương đối của D.Ricacdo.
Trong khi tiến hành hoạt động thương mại các quốc gia có thể được lợi từ những khác biệt giữa họ bằng cách đạt tới một sự dàn xế theo đó mỗi nước sẽ làm những gì mà xét một cách tương đối nước đó làm tốt hơn. Theo lý thuyết này, một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích.
Nguyên tắc cơ bản để có lợi thế tương đối chính là việc thực hiện cách mạng hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chi phí sản xuất tương đối thấp hơn so với các nước khác. Lợi thế tương đối cho phép bất kỳ nước nào cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế để gia tăng thu nhập.
Sau đây, chúng ta sẽ chứng minh rằng các nước sẽ đều thu được lợi từ hoạt động thương mại bằng sự cách mạng hoá qua ví dụ sau:
Giả sử có số liệu về ngày công lao động cần thiết để sản xuất hai sản phẩm là thép và cà phê của hai nước Việt Nam và Nhật Bản.
Sản phẩm
Chi phí sản xuất (ngày công lao động)
Việt Nam
Nhật Bản
Thép (tấn)
35
20
Cà phê (tấn)
5
4
Như vậy, nếu xét về chi phí sản xuất thì hao phí lao động của Việt Nam cao hơn Nhật Bản trong cả hai mặt hàng. Do đó theo lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nào sang Nhật Bản.
Nếu xem xét dựa theo chi phí so sánh, ta có:
Quốc gia
SP so sánh
Việt Nam
Nhật Bản
Thép/Cà phê
7
5
Cà phê/Thép
1/7
1/5
Như vậy, để sản xuất ra 1 tấn thép Việt Nam cần 7 tấn cà phê hay ngược lại cần 1/7 tấn thép để sản xuất 1 tấn cà phê. Tương tự đối với phía Nhật Bản cần 5 tấn cà phê để sản xuất 1 tấn thép và ngược lại cần 1/5 tấn thép để sản xuất 1 tấn cà phê. Như vậy ta thấy chi phí so sánh để sản xuất ra 1 tấn cà phê của Việt Nam thấp hơn của Nhật Bản và chi phí để sản xuất ra 1 tấn thép của Nhật Bản thấp hơn của Việt Nam. Do đó, Việt Nam có thể xuất khẩu cà phê sang Nhật Bản và nhập khẩu thép từ Nhật Bản và ngược lại Nhật Bản có thể xuất khẩu thép sang Việt Nam và nhập khẩu cà phê từ Việt Nam. Trong mối quan hệ buôn bán này có 2 nước Việt Nam và Nhật Bản đều có lợi, do đó đều cùng muốn trao đổi hàng hoá với nhau.
- Về phía Việt Nam: khi chưa có hoạt động ngoại thương người sản xuất cà phê bán 7 tấn cà phê được 1 tấn thép, khi có ngoại thương họ chỉ cần bán 5 tấn cà phê sang Nhật Bản là đổi được 1 tấn thép và họ còn lại 2 tấn cà phê để tiêu dùng, kết quả là Việt Nam có thể tiêu dùng ngoài đường khả năng sản xuất.
Giả sử: tỷ lệ trao đổi là 5,5 cà phê=1 thép và Việt Nam mua 2 tấn thép.
2
7,0
Nhu cầu thép
P
S
5,5
5,0
Giá SS
Sơ đồ 1.1
Khi có ngoại thương, điểm A phản ánh đồng thời khả năng sản xuất và khả năng tiêu dùng của 2 loại hàng hoá là cà phê và thép là (Ca , Ta). Khi có ngoại thương Việt Nam tập trung vào sản xuất cà phê nhiều hơn, sản xuất thép ít đi nên trên đường giới hạn khả năng sản xuất PPF, khả năng sản xuất của Việt Nam được di chuyển từ A đến B với số lượng cà phê nhiều hơn (Cb>Ca) và lượng thép ít hơn (Tb<Ta). Tuy vậy nhờ có hoạt động ngoại thương giữa Việt Nam và Nhật Bản nên khả năng tiêu dùng của Việt Nam lại nằm tại C (Cb-n, Tb + 2) vượt ra ngoài đường khả năng sản xuất.
Tb+2
Cb
Thép
A
Cb-n
Ca
Cà phê
Ta
C
B
Tb
Sơ đồ 1.2
Cũng tương tự như vậy ta có lợi ích của Nhật Bản thu được trong quan hệ với Việt Nam như sau:
C’b+11
T’b
Cà phê
A’
T’b-2
T’a
Thép
C’a
C’
B’
C’b
11
1/5
Nhu cầu cà phê
1/5,5
1/7
Giá SS
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ 2.2
Như vậy nhờ có ngoại thương mà khả năng tiêu dùng của Nhật Bản cũng vượt qua đường giới hạn khả năng sản xuất tại điểm C’ (Tb-2, Cb+n).
Qua phân tích ở trên ta đã giải thích được phần nào cơ sở của việc hình thành các hoạt động ngoại thương. Mô hình của Ricacdo tập trung vào năng suất lao động tương đối là công cụ hữu ích để lý giải sự ra đời của hoạt động ngoại thương.
3-/ Cơ sở ngoại thương của Việt Nam.
Luật Thương mại Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/1/1998) đã khẳng định: Nhà nước thống nhất quản lý về ngoại thương, có chính sách mở rộng giao lưu hàng hoá với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của pháp luật, có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng yêu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
Về cơ bản chính sách ngoại thương hiện nay của chúng ta đang thực hiện là chính sách hướng ngoại tổng hợp, tức là tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất sản phẩm xuất khẩu đồng thời khuyến khích sản xuất các sản phẩm để thoả mãn nhu cầu trong nước và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo nguồn tích luỹ cho đất nước.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII tháng 6-1996 đã nêu: “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ, nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Như vậy hoạt động xuất khẩu được coi là yếu tố quyết định của hoạt động ngoại thương, là nhân quan trọng trong kinh tế đối ngoại.
Nội dung chính sách xuất khẩu của nước ta bao gồm những điểm sau đây:
- Một là, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu hàng hoá cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Thông qua nhật khẩu tranh thủ thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước.
- Hai là, phấn đầu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, đa phương hoá thị trường xuất khẩu. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, thu hẹp chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
- Ba là, khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất sản phẩm hướng về xuất khẩu.
- Bốn là, xoá bỏ bao cấp và bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải hoạt động có hiệu quả, đồng thời phải thực hiện trách nhiệm xã hội do pháp luật quy định. Khi phục vụ lợi ích chung, trường hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ thích đáng.
- Năm là, cơ cấu xuất khẩu và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phải phù hợp với điều kiện thị trường cạnh tranh. Đây là yếu tố quyết định để tăng kim ngạch xuất khẩu vừa tăng nhanh xuất khẩu vừa chú trọng mở rộng các dịch vụ thu ngoại tệ tăng tỷ trọng các sản phẩm có chứa hàm lượng kỹ thuật cao và sản phẩm chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô là những phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
- Sáu là, cơ cấu mặt hàng phải theo hướng đa dạng hoá phát huy tiềm năng của nền nông nghiệp nhiệt đới, phát huy được các lợi thế về lao động, con người, tạo ra những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao nhờ tính độc đáo và giá thành thấp.
II-/ Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế:
1-/ Khái niệm về hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Xuất khẩu không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Do đó, cùng với những lợi ích kinh tế đem lại khá cao thì hoạt động xuất khẩu cũng rất dễ dẫn đến những hiệu quả khó lường hết vì nó phải đối mặt với toàn bộ các hệ thống kinh tế của các nước cùng tham gia xuất khẩu mà các hệ thống này có đặc điểm không giống nhau và rất khó có thể khống chế được.
Xuất khẩu, đó là hoạt động bán những sản phẩm sản xuất trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống cho nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn rất nhiều so với việc mua bán một sản phẩm nào đó trong thị trường nội địa, vì hoạt động này diễn ra trong một thị trường vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán có ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển ra ngoài phạm vi quốc gia. Các quốc gia khi tham gia vào hoạt động buôn bán, giao dịch quốc tế đều phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế.
2-/ Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Hoạt động xuất khẩu mang lại nguồn tài chính rất lớn cho đất nước. Chúng ta có thể tóm gọn lại vai trò của xuất khẩu đối với sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia qua những điểm sau đây:
- Thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh chúng ta sẽ có khả năng phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng tối đa và hiệu quả các nguồn lực có điều kiện trao đổi kinh nghiệm cũng như tiếp cận được với các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đây chính là vấn đề mấu chốt của công nghiệp hoá hiện đại hoá. áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại trong các ngành chế tạo và chế biến hàng xuất khẩu sẽ tạo được những sản phẩm có chất lượng cao mang tính cạnh tranh trên thị trường thế giới. Khi đó sẽ có một nguồn lực công nghiệp mới cho phép tăng số lượng, chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết kiệm được chi phí lao động của xã hội.
- Tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động, từ đó kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, góp phần tạo ra những biến chuyển tốt để giải quyết những vấn đề còn bức xúc trong xã hội.
- Tăng thu ngoại tệ tạo nguồn vốn cho đất nước và cả cho nhập khẩu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đồng thời cải thiện cán cân thanh toán, cán cân thương mại, tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước và qua đó tăng khả năng nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị tiên tiến thay thế dần cho những thiết bị lạc hậu còn đang sử dụng, để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
- Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh. Nhờ có cạnh tranh thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến công nghệ để có khả năng sản xuất những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, tạo ra năng lực sản xuất mới. Vì vậy, các chủ thể tham gia xuất khẩu cần phải tăng cường theo dõi kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau để không bị yếu thế trong cạnh tranh.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Khi hoạt động xuất khẩu xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới nó sẽ đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển thể hiện ở một số điểm sau:
+ Tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ làm cho sản xuất phát triển và ổn định.
+ Mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất góp phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển đồng thời kéo theo các ngành liên quan phát triển theo.
+ Thông qua xuất khẩu, Việt Nam có thể tham gia vào thị trường cạnh tranh thế giới. Do vậy các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và hoàn thiện cơ cấu sản phẩm để thích nghi với các yêu cầu đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường thế giới.
+ Tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật hiện đại.
III-/ Vị trí của ngành cà phê trong nền kinh tế quốc dân và sự cần thiết phải đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam.
1-/ Sơ lược sự hình thành và phát triển của cây cà phê.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 75 nước trồng cà phê trong đó có trên 50 nước có cà phê xuất khẩu, nhưng đến nay người ta vẫn chưa xác định được một cách chính xác lịch sử phát hiện ra cây cà phê. Theo truyền thuyết thì cà phê được phát hiện lần đầu tiên ở Châu Phi cách đây khoảng 1000 năm do một người chăn dê tên là Kaldi. Sau đó người ta dùng cà phê làm nước uống cho những đêm đại hành lễ ở nhà thờ và các cuộc hành trình vượt xa mạc. Từ đó cà phê trở thành một thứ đồ uống làm đam mê biết bao con người.
Về giống cà phê hiện nay trên thế giới có 3 loại chủ yếu là:
- Cà phê chè (Coffea Arabic