Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội diễn ra nhanh chóng. Nền kinh tế đất nước ngày càng gắn liền với nền kinh tế thế giới và khu vực, với những cam kết và lịch trình cụ thể một mặt tạo ra nhiều cơ hội mới về thương mại quốc tế, thu hút vốn đầu tư FDI, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý . Nhưng đồng thời nó cũng tạo ra nhiều thách thức, nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước và một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình phát triển kinh tế của đât nước đó là ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. Nó ảnh hưởng đến tất cả các mặt kinh tế xã hội của đất nước, của khu vực và còn lan rộng ra các khu vực khác trên thế giới và một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất là lĩnh vực thu hút vốn FDI.
Giữa năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á đã nổ ra và gây ra tác hại nghiêm trọng đến kinh tế - chính trị - xã hội của một loạt các nước trong khu vực. Việt Nam là một trong nước nằm trong khu vực bị khủng hoảng, mặc dù mức độ ảnh hưởng không lớn so với các nước trong khu vực nhưng cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, và một trong những lĩnh vực ảnh hưởng nhiều nhất là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài làm cho dòng vốn chảy vào Việt Nam và khu vực giảm đi một cách nhanh chóng.
Đến nay cuộc khủng hoảng phần nào đã dịu bớt đi, các nước trong khu vực đã phần nào phục hồi nền kinh tế và dần tăng lên. Nền kinh tế Việt Nam cũng đã dần dần tăng trưởng trở lại nhưng dòng vốn FDI vào Việt Nam chưa được cải thiện là bao nhiêu. Do vậy vấn đề thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này là hết sức cần thiết để đưa đất nước vực dậy sau cơn khủng hoảng.
Từ những vấn đề cấp thiết đó và với sự gợi ý, giúp đỡ giáo viên hướng dẫn, cán bộ hướng dẫn do vậy đề tài nghiên cứu tập trung vào vấn đề sau:
Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á
Đề tài này tập trung vào phân tích đánh giá tình hình thu hút vốn FDI và đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện phần nào việc huy động vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn tới.
Đề tài này bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Phần I: Vai trò của vốn đầu tư , vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Phần II: Thực trạng huy động vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn
1988 - 1999
Phần III: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động
vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo và các cô chú trong Ban phân tích và dự báo kinh tế xã hội - Viện chiến lược phát triển - Bộ kế hoạch đầu tư đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Do trình độ còn hạn chế nên đề tài này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Do vậy em rất mong nhận được sự đóng góp, góp ý của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
73 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội diễn ra nhanh chóng. Nền kinh tế đất nước ngày càng gắn liền với nền kinh tế thế giới và khu vực, với những cam kết và lịch trình cụ thể một mặt tạo ra nhiều cơ hội mới về thương mại quốc tế, thu hút vốn đầu tư FDI, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý . Nhưng đồng thời nó cũng tạo ra nhiều thách thức, nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước và một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình phát triển kinh tế của đât nước đó là ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. Nó ảnh hưởng đến tất cả các mặt kinh tế xã hội của đất nước, của khu vực và còn lan rộng ra các khu vực khác trên thế giới và một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất là lĩnh vực thu hút vốn FDI.
Giữa năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á đã nổ ra và gây ra tác hại nghiêm trọng đến kinh tế - chính trị - xã hội của một loạt các nước trong khu vực. Việt Nam là một trong nước nằm trong khu vực bị khủng hoảng, mặc dù mức độ ảnh hưởng không lớn so với các nước trong khu vực nhưng cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, và một trong những lĩnh vực ảnh hưởng nhiều nhất là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài làm cho dòng vốn chảy vào Việt Nam và khu vực giảm đi một cách nhanh chóng.
Đến nay cuộc khủng hoảng phần nào đã dịu bớt đi, các nước trong khu vực đã phần nào phục hồi nền kinh tế và dần tăng lên. Nền kinh tế Việt Nam cũng đã dần dần tăng trưởng trở lại nhưng dòng vốn FDI vào Việt Nam chưa được cải thiện là bao nhiêu. Do vậy vấn đề thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này là hết sức cần thiết để đưa đất nước vực dậy sau cơn khủng hoảng.
Từ những vấn đề cấp thiết đó và với sự gợi ý, giúp đỡ giáo viên hướng dẫn, cán bộ hướng dẫn do vậy đề tài nghiên cứu tập trung vào vấn đề sau:
Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á
Đề tài này tập trung vào phân tích đánh giá tình hình thu hút vốn FDI và đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện phần nào việc huy động vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn tới.
Đề tài này bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Phần I: Vai trò của vốn đầu tư , vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Phần II: Thực trạng huy động vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn 1988 - 1999
Phần III: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo và các cô chú trong Ban phân tích và dự báo kinh tế xã hội - Viện chiến lược phát triển - Bộ kế hoạch đầu tư đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Do trình độ còn hạn chế nên đề tài này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Do vậy em rất mong nhận được sự đóng góp, góp ý của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
PHẦN I
VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ. VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
I-/ TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ :
1-/ Khái niệm về vốn đầu tư:
Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đều cần phải có tiền.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mới hình thành, số tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị...để tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật (các tài sản cố định) cho các cơ sở này tạo ra vốn lưu động thông qua hoạt động mua sắm nguyên vật liệu, trả luơng cho người lao động... trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động, thì số tiền này dùng để mua sắm thêm máy móc thiết bị xây dựng thêm nhà xưởng hoặc mua sắm thêm các tài sản cố định thay thế các tài sản cố định đã bị hư hỏng hoặc đã bị hao mòn.
Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động là rất lớn, không thể trích ra một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các cơ sở, các xã hội vì điều này sẽ làm xáo động mọi hoạt động bình thường của sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Do vậy số tiền sử dụng cho các hoạt đọng trên đây chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh là tiền tiết kiệm của nhân dân và vốn huy động từ nước ngoài.
Từ đây ta có thể rút ra định nghĩa ngắn gọn về vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của nhân dân đưa vào nhằm thay thế tài sản cố định bị loại thải để tăng tài sản cố định mới và tăng tài sản tồn kho.
2-/ Các nguồn hình thành vốn đầu tư:
Bất kỳ một xã hội nào muốn phát triển không ngừng đều phải tiến hành đầu tư để đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Cụ thể là phải tạo ra các nguồn đầu vào cho sản xuất như sức lao động, tư liệu lao động. Nói cách khác chúng ta cần phải có tiền để trang trải các chi phí ứng trước này.
Nhưng nguồn vốn đầu tư lấy từ đâu? Con đường duy nhất là lấy từ phần tiết kiệm trong số của cải làm ra. Do đó vấn đề đầu tiên phải giải quyết là mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ, tức là giải quyết vấn đề tiết kiệm trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Trong điều kiện thế giới hiện nay, nguồn tiết kiệm này bao gồm cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước.
2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước:
* Vốn ngân sách Nhà nước:
Được hình thành từ quỹ tiết kiệm ngân sách. Tiết kiệm ngân sách của Nhà nước là khoản chênh lệch giữa tổng thu ngân sách và chi của Chính phủ. Tổng thu của Chính phủ chủ yếu là từ thuế, ngoài ra còn có từ bán, cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc khu vực Nhà nước và các khoản phí khác. Tổng chi của chính phủ bao gồm: chi mua hàng hoá dịch vụ, chi trả lương cho cán bộ hành chính sự nghiệp, chi trợ cấp, chi trả lãi tiền vay.
* Vốn tự có của doanh nghiệp: được hình thành từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp để bổ sung cho vốn kinh doanh.
* Vốn của tư nhân và vốn các hộ gia đình: là các khoản tiết kiệm từ các nguồn thu có được từ dân cư và từ các hộ gia đình.
* Vốn của các tổ chức tín dụng: là nguồn vốn được các tổ chức tín dụng huy động từ vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và dân cư.. thông qua các kênh tín dụng.
Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy muốn có tối đa tăng trưởng kinh tế nhanh thì phải có thời kỳ tích luỹ, và lượng tích luỹ nhiều. Những nước huy động vốn từ trong nước thì tỷ lệ tích luỹ từ GDP phải cao thì mới có thể tạo đà phát triển ở kỳ sau. Bởi nguồn vốn trong nước phụ thuộc vào các nhân tố như: quy mô và tốc độ tăng GDP, quan hệ tích luỹ và tiêu dùng, tiêu dùng và đầu tư. ở các nước đang phát triển như Việt nam thì tỷ lệ tích luỹ, tỷ lệ đầu tư vẫn còn thấp trong khi ỷ lệ tiêu dùng GDP cao. Đây là điểm yếu mà các nước đang phát triển phải khắc phục bằng cáh tăng tỷ lệ tiết kiệm hoặc huy độnh vốn đầu tư nước ngoài.
2.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
* Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn với lãi suất thấp và thời gian gia hạn dài) của chính phủ, các nước của tổ chức liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế như: ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu á (ADB), quỹ tiền tệ quốc tế dành cho chính phủ nhân dân nước viện trợ mà chủ yếu dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi của các nước này.
- Hỗ trợ phát triển chính thức có các đặc điểm:
+ Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp.
+ Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi.
+ Các nước nhận vốn ODA phải có một số điều kiện nhất định theo quy định của từng nhà tài trợ mới được nhận tài trợ.
+ Chủ yếu dành sự hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, y tế, giáo dục...
+ Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương hoặc các tổ chức viện trợ song phương.
- Các hình thức của hỗ trợ phát triển ODA:
+ Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức đầu tư chủ yếu của vốn ODA.
+ Hỗ trợ phi dự án: chủ yếu là viện trợ chương trình đạt được sau khi ký các hiệp định với các đối tác tài trợ dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định.
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán.
+ Tín dụng thương mại: là những khoản tín dụng dành cho chính phủ các nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn trả dài nhưng có những ràng buộc nhất định.
* Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (non - Government organization - NGO).
Viện trợ NGO đều là các viện trợ không hoàn lại, trước đây loại viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo như: cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế, lương thức cho các nạn nhân thiên tai,...Hiện nay hình thức này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trơ của các chuyên gia thường trú về các mặt như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn, cung cấp dinh dưỡng và sức khoẻ ban đầu..
* Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct investment - FDI)
Đây là nguồn vốn của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm sau:
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn 49%. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quyết định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi quản lý... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được.
II-/ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1-/ Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó, những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để đo lường hiệu quả của vốn đầu tư thấy được vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế, ta lần lượt xem xét các lý thuyết:
1.1 Mô hình tái sản xuất mở rộng của K. Mác.
Trong tác phẩm “Tư bản”, K.Mác đã dành phần quan trọng để nghiên cứu về cân đối kinh tế về mối quan hệ về giữa hai khu vực của nền sản xuất xã hội để đảm bảo quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng và các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ.
Với những giả định về một nền kinh tế không có trao đổi ngoại thương K.Mác đã chững minh điều kiện để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng.
Nền kinh tế chia thành hai khu vực:
Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất.
Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Và cơ cấu tổng giá trị của các khu vực bao gồm (C+V+M) trong đó C là phần tiêu hao vật chất; V+M là giá trị mới sáng tạo ra. Để quá trình tái sản xuất mở rộng được thực hiện phải đảm bảo giá trị mới sáng tạo ra (V+M)I của khu vực I phải lớn hơn tiêu hao vật chất CII của khu vực II:
(V+M) > CII
hay là (C+V+M)I > (CI+CII)
Như vậy, tư liệu sản xuất làm ra không những chỉ bồi hoàn cho những tiêu hao (CI+CII) trong cả hai khu vực của nền kinh tế mà tư liệu sản xuất còn phải sản xuất dư thừa để tham gia quá trình đầu tư làm tăng thêm quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao quát nhiều quá trình rộng lớn từ lực lượng sản xuất cho đến quan hệ sản xuất. Đầu tư là nhằm tạo ra vốn sản xuất, một yếu tố quan trọng cùng với tái tạo lưc lượng lao động sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất không ngừng. Trong điều kiện mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay, đầu tư với số vốn như trước cũng có thể tạo ra những vốn sản xuất có năng lực lớn hơn. Ví dụ một máy phát điện kiểu mới chạy bằng khí với công suất tương tự một máy phát điện chạy bằng dầu có thể chỉ mua với giá bằng 60 - 70%. Như vậy trong điều kiện ngày nay đầu tư không chỉ bảo đảm quá trình tái sản xuất mà còn man theo những yếu tố tiến bộ: năng suất cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, ít ô nhiễm môi trường bảo vệ sức khoẻ người dân... Kết quả là nếu có phương hướng và chính sách đầu tư đúng đắn thì sẽ đảm bảo cao quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng, kết hợp tốt giữa đầu tư phát triển và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
1.2 Mô hình tăng trưởng của Harrod - Domas
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40, với sự nghiên cứu của một cách độc lập hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domas ở Mỹ đã đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp ở các nước phát triển, mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị nào, dù là một công ty, một ngành, hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra là g.
g =
Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S:
s =
vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm St = It
s =
Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do It = DKt + 1
Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn - đầu ra ta sẽ có:
k = hay k =
vì = =
do đó ta có g =
Trong đó:
S: số tiền tiết kiệm hàng năm.
I: Vốn đầu tư hàng năm.
K: Vốn sản xuất hàng năm.
Ở đây k gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói lên rằng vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư.
Hệ số ICOR giữa các nước khác nhau là khác nhau. Các nước càng phát triển thì hệ số ICOR càng lớn. Kinh nghiệm các nước cho thấy chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế (chủ yếu tận dụng do năng lực sản xuất sẵn có) thấp hơn trong giai đoạn tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hoá (phải xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong những năm tới).
Tóm lại, mặc dù mô hình Harrod - Domas đơn giản nhưng cho ta thấy rõ được vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Các nhà lập kế hoạch có thể căn cứ vào mô hình này để xác định tỷ lệ tiết kiệm và vốn đầu tư cần thiết để đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế đề ra.
1.3 Tác động của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Một sự thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu do vậy sẽ tác động sản lượng công ăn việc làm.
DL
DL1
DL0
Y0
Y1
AS
AD1
AD0
Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 - AD1 do vậy làm cho mức sản lượng tăng lên từ Y0 - Y1 và mức giá cũng tăng lên từ DL0 - DL1.
Ngày nay, vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trĩnh, vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu , hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở rộng ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất.
2-/ Vai trò của vốn FDI với tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ra đời muộn là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động khác vài ba thập kỷ. Nhưng ngay khi xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIX đầu tư nước ngoài đã có vị trí đáng kể trong các quan hệ kinh tế quốc tế góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế cho cả nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư.
2.1 Lý thuyết về lợi ích của đầu tư nước ngoài.
Hợp tác đầu tư với nước ngoài chỉ có thể được thành công khi có sự gặp gỡ về lợi ích của cả hai bên. Ngay từ năm 1960 Mac Dougall đã chỉ ra rằng sự tăng vốn FDI vừa làm tăng sản phẩm đầu ra vừa phân phối lại thu nhập giữa các nhà đầu tư trong nước và người lao động.
Mô hình có các giả thiết sau:
- Nền kinh tế thế giới được thực hiện bởi nước đầu tư và nước chủ nhà. Nước đầu tư thì dư thừa vốn đầu tư trong khi đó nước chủ nhà thì khan hiếm về vốn đầu tư.
- Năng suất cận biên của vốn đầu tư giảm dần và điều kiện cạnh tranh hoàn hảo.
0
A
B
C
K
F
E
D
G
H
I
L
Năng suất cột biên của vốn ĐT
Vốn đầu tư
Trên mô hình trên tổng số vốn đầu tư là OB, trong đó OA là vốn đầu tư của nhà đầu tư trong nước và AB là vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị đầu ra là OLFB trong đó hu nhập của nhà đầu tư trong nước là ODEA, của chủ đầu tư nước ngoài là AEFB và thu nhập của người lao động là DLF.
Khi vốn FDI tăng lên từ AB thành AC sẽ có những tác dụng sau đây: thu nhập các nhà đầu tư nước ngoài là AHKC (thu nhập mới tăng thêm BIKC, và thu nhập cũ giàm đi HEFI). Nhà đầu tư trong nước giảm thu nhập GDEH và người lao động được hưởng phần thu nhập tăng thêm DKFG. Như vậy, khi có FDI tăng thêm sẽ làm cho thu nhập của nước chủ nhà tăng thêm HEFK. Trong đó có sựu phân phối thu nhập giữa nhà đầu tư trong nước với người lao động. Ngoài ra nó còn đem lại lợi ích cho các nước đi đầu tư, làm tăng sản lượng của thế giới.
2.2 Đối với các chủ đầu tư nước ngoài.
- FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước về thực chất hoạt động như là chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại. Sự mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm phụ tùng xe , công ty mẹ ở nước ngoài đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
-FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao.
Do sự phát triển không đồng đều về trình độ sản xuất và mức thu nhập... Giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất .Do đó đầu tư nước ngoài cho phép lợi dụng chênh lệch này để giảm bớt chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, ...Trước hết đó là chi phí về lao động, việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm được chi phí vận chuyển hàng hoá, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị...Do chạy theo lợi nhuận, các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở các nước phát triển để đầu tư ở những nước đang phát triển, để đầu tư ở những nước có chi phí rẻ lợ nhuận cao, và như vậy tạo công ăn việc làm cho nước nhận đầu tư.
-FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được nguồn cung cấp nguyên liệu.
Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhằm tìm kiếm nguồn nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện khai thác