Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng của xã hội chủ nghĩa ." là chủ chương và đường lối phát triển kinh tế do Đại hội Đảng VI đề ra.
Cơ chế thị trường với các quy luật đặc thù của nó sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam bởi tính linh hoạt và hiệu quả của nó.
70 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và một số giải pháp nhằm duy trì, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty thương mại thuốc lá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
" ... Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng của xã hội chủ nghĩa ..." là chủ chương và đường lối phát triển kinh tế do Đại hội Đảng VI đề ra.
Cơ chế thị trường với các quy luật đặc thù của nó sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam bởi tính linh hoạt và hiệu quả của nó. Khi các quy luật của cơ chế thị trường vận động cũng là lúc mà các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều hình thức và khó khăn trong việc duy trì và phát triển sản xuất. Việc tự tìm kiếm thị trường, tự hoạch định cách phát triển sản xuất và tự chịu về hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình đã gây cho các doanh nghiệp rất nhiêù bở ngỡ, lúng túng.
Hiện nay, vấn đề đầu ra thực sự là một thách thức rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Hoạt động tiêu thụ có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc bảo toàn và phát triển vốn đầu tư. Làm cách nào để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng cường vị thế của doanh nghiệp trên thị trường thực sự là vấn đề cần được giải quyết. Cũng như các doanh nghiệp khác, Công ty thương mại thuốc lá với những suy nghĩ "làm thế nào để duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm " và công tác tiêu thụ sản phẩm đang được công ty quan tâm và đầu tư. Trong thời gian tìm hiểu thực tế ở Công ty thương mại thuốc lá, với sự giúp đỡ tận tình của các phòng, ban chức năng trong công ty, trên cơ sở hướng dẫn và gợi ý của thầy giáo PGS - TS Phạm Hữu Huy em chọn đề tài:
" Phương hướng và một số giải pháp nhằm duy trì, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty thương mại thuốc lá "
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu vấn đề tiêu thụ sản phẩm phải đặt việt tiêu thụ trong mối liên hệ với các mặt khác của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lấy việc nghiên cứu hoạt động tiêu thụ là trung tâm từ đó xem xét các mối liên hệ giữa tiêu thụ với các yếu tố khác như chất lượng sản phẩm, dầu tư cho mạng tiêu thụ...
Nội dung của chuyên đề bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong cơ chấ thị trường.
- Chương 2: Phân tích thực trạng việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty thương mại thuốc lá.
- Chương 3: Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty thương mại thuốc lá.
Chương một
Duy trì và mở rộng thị trường là một nhân tố cơ bản nhằm duy trì, mở rộng thị trường sản phẩm ở Công ty thương mại thuốc lá
1. Quan điểm cơ bản về thị trường:
1.1. Khái niệm, chức năng vai trò của cơ chế thị trường:
1.1.1. Khái niệm về thị trường:
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá và phân công lao động xã hội. Trải qua thời gian và sự phát triển của thị trường dẫn đến nhiều khái niệm khác nhau về thị trường.
a. Thị trường theo cách hiểu cổ điển: là nơi diễn ra các quá trình trao đổi và buôn bán trong thuật ngữ kinh tế hiện đại, thị trường còn bao gồm cẩ các hội chợ, các địa dư hay các khu vực tiêu thụ theo mặt hàng hoặc nghành hàng.
b. Thị trường theo quan điểm kinh tế: là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ và sản lượng.
c. Khái niệm theo Marketing: thị trường là tổng hợp các nhu cầu hoặc tập hợp nhu cầu về một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó, là nơi diễn ra hành vi mua bán, trao đổi bằng tiền tệ.
Như vậy, thị trường có thể ở bất kỳ chỗ nào khi có một nhóm người
hoặc nhiều người mua và bán. Thị trường là một phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua 3 nhân tố có mối quan hệ hữu cơ mật thiết vớ nhau đó là: Nhu cầu về hàng dịch vụ; cung ứng hàng hoá, dịch vụ; giá cả hàng hoá dịch vụ. Qua thị trường chúng ta có thể xác định mối tương quan giữa cung và cầu thị trường về hàng hoá, dịch vụ hiểu được phạm vi và quy mô của việc thực hiện cung cầu dưới hình thức mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thị trường còn là nơi kiểm nghiệm về chất lượng và giá trị của hàng hoá, dịch vụ và được thị trường chấp nhận. Do vậy các yếu tố có liên quan đến hàng hoá và dịch vụ đều phải tham gia vào thị trường.
Vậy điều quan tâm của doanh nghiệp thông qua nội dung trên là phải tìm ra thị trường, tìm đến nhu cầu và khả năng thanh toán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của người tiêu dùng. Ngoài ra doanh nghiệp còn pải quan tâm đến việc so sánh những sản phẩm mà nhà sản xuất cung ứng ra thị trường có thoả mãn nhu cầu của khác hàng không, có phù hợp với khả năng thanh toán của người tiêu dùng không? bởi vì trong thị trường phải quan niệm rằng " khác hàng là thượng đế ".
Thị trường ở đây theo em hiểu thì thị trường là nơi tập hợp rất nhiều nhóm người tiêu dùng với nhu cầu đa dạng và phong phú về hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, doanh nghiệp noà nắm được nhu cầu của người tiêu dùng thì doanh nghiệp đã nắm chắc cơ hội thành công trong sản xuất và kinh doanh. Như quan điểm của Marketing thì nên đồng nhất giữa thị trường và khách hàng. Chỉ có như vậy, doanh nghiệp mới ý thức được mục tiêu của các kế hoạch, chính sách thị trường của mình.
1.1.2. Chức năng của thị trường:
Thị trường được coi là một phạm trù trung tâm, vì qua đó các doang nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống gía cả. Trên thị trường, giá cả hàng hoá và dịch vụ, giá cả các yếu tố của các nguồn lực như lao động, đất đai, thiết bị ... luôn luôn biến động nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường và xã hội. Như vậy, ta thấy thị trường có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thị trường tồn tại khách quan, từng doanh nghiệp có thể hoạt động thích ứng với thị trường. Mỗi doanh nghiệp phải trên cơ sở nhận biết nhu cầu của thị trường, cũng như thế mạnh của mình trong sản xuất kinh doanh để có kế hoạch và phương án kinh doanh phù hợp với sự đòi hỏi của thị trường. thị trường có vai trò to lớn như vậy là do nó có các chức năng chủ yếu sau đây:
a. Chức năng thừa nhận của thị trường:
Chức năng này được thể hiện ở chỗ hàng hoá hay dịch vụ của doanh nghiệp có bán được hay không, nếu bán đuợc có nghĩa là được thị trường chấp nhận. Hàng hoá, dịch vụ được thị trường thừa nhận có nghĩa là người tiêu dùng chấp nhận và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện. Thị trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá,dịch vụ, chuyển giá trị riêng biệt thành giá trị xã hội, sự phân phối và phân phối lại các nguồn lực nói lên sự thừa nhận của thị trường.
b. Chức năng thực hiện của thị trường:
Chức năng này được thực hiện ở chổ thị trường là nơi diễn ra các hành vi mua bán hàng hoá, dịch vụ. Người bán cần giá trị của hàng hoá, còn người mua cần giá trị sử dụng của hàng hoá. Nhưng theo trình tự, thì sự thực hiện của giá trị sẩy ra khi nào thực hiện được giá trị sử dụng. Bởi vì hàng hoá hay dịch vụ dù được tạo ra với chi phí thấp nhưng không phù hợp với nhu cầu của thị trường và xã hội thì cũng không tiêu thụ hoặc bán được. Như vậy, thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các loại hàng hoá và dịch vụ hình thành nên giá trị trao đổi của mình làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực.
c. Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường:
- Chức năng điều tiết: Thông qua nhu cầu thị trường, người sản xuất sẽ chủ động di chuyển hàng hoá, tiền vốn, vật tư từ lĩnh vượt này sang lĩnh vực khác nhằm thu hút lợi nhuận cao hơn. Chính vì vậy người sản xuất cũng cố địa vị của mình trong sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao, tăng cường sức mạnh của doanh nghiệp trong cạnh tranh.
- Chức năng kích thích: Thể hiện ở chỗ thị trường chỉ chấp nhận những hàng hoá, dịch vụ với những chi phí sản xuất và lưu thông thấp hoặc bằng mức bình thường, nhằm kích thích các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm.
d. Chức năng thông tin của thị trường:
Thị trường chỉ cho người sản xuất biết nên sản xuất hàng hoá, dịch vụ nào, với khối lượng bao nhiêu để đưa sản phẩm ra thị trường với thời điểm nào là thích hợp và có lợi nhất. Chỉ cho người tiêu dùng nên mua những loại hàng hoá và dịch vụ nào ở thời điểm nào là có lợi cho mình, chức năng có được là do nó chứa đựng các thông tin về: Tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ giữa cung và cầu đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ, các điều kiện tìm kiếm hàng hoá và dịch vụ, các đơn vị sản xuất và phân phối ... Đây là những thông tin rất cần thiết đối với người sản xuất và người tiêu dùng để đề ra các quyết định thích hợp đem lại lợi ích và hiệu quả cho mình.
1.1.3. Các yếu tố hợp thành thị trường và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thị trường:
a. Các nhân tố hợp thành thị trường:
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với nền kinh tế hàng hoá, sự phân công lao động xã hội và việc sử dụng đồng tiền làm thước đo trong quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Từ đó ta thấy, thị trường muốn tồn tại và phát triển phải có đủ các điều kiện sau:
- Phải có khách hàng, tức là người mua hàng hoá và dịch vụ.
- Phải có người cung ứng, tức là người bán hàng và dịch vụ.
- Người bán hàng và dịch vụ bán cho người mua và phải được bồi hoàn (được trả giá).
Như vậy, bất cứ thị trường nào cũng chứa đựng ba yếu tố: Cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch vụ. Ba yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và hợp thành thị trường.
- Yếu tố cung: Yếu tố này phản ánh cho ta thất trên thị trường chỉ có những hàng hoá và dịch vụ có nhu cầu mới được cung ứng. Điều này có được là do hoạt động có ý thức của các nhà sản xuất, kinh doanh. Mặt khác hàng hoá và dịch vụ được cung ứng không phải bằng bất cứ giá nào mà là giá cả thoả thuận vừa có lợi cho người cung ứng vừa có lợi cho người có nhu cầu (không tính những trường hợp ngoại lệ).
- Yếu tố cầu: Yếu tố này phản ánh cho ta thấy trường hợp chỉ có những nhu cầu về thị trường và xã hội có khả năng đáp ứng mới tồn tại và mới có quan hệ qua lại với các yếu tố còn lại của thị trường. Và lẽ đương nhiên, khi nói đến nhu cầu là nói tới số lượng được thoả mãn về một loại hàng hoá hay dịch vụ cụ thể gắn liền với mức giá cả nhất định.
- Yếu tố giá cả: Yếu tố này phản ánh cho ta thấy trên thị trường, việ đáp ứng nhu cầu của thị trường và xã hội về hàng hoá và dịch vụ luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các nguồn lực có hạn của xã hội và được trả giá. Như vậy trên thị trường, hàng hoá và dịch vụ được bán theo giá mà số lượng cung cấp gặp số lượng cầu.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường:
Về mặt lý luận và thực tiễn, người ta đã coi thị trường là một tổng thể, nên các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường là rất phong phú và đa dạng. Để đạt được hiệu qủa cao trong việc nghiên cứu thị trường, cần phải phân loại một số nhân tố trên góc độ thích hợp.
- Trên góc độ sự tác động của các lĩnh vực vào thị trường có thể phân thành các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, tâm sinh lý, thời tiết, khí hậu.
+ Các nhân tố kinh tế: Đặc biệt là sử dụng các nguồn lực sản xuất trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, nội thương, ngoại thương ... Các phương pháp sử dụng nguồn lực có ảnh hưởng quyết định đến thị trường bởi lẻ chúng ta tác động trực tiếp đến lượng cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch vụ.
+ Các nhân tố chính trị - xã hội: Các nhân tố này ảnh hưởng đến thị trường được thể hiện thông qua các chủ trương, chính sách, thông tục tập quán và truyền thống, trình độ văn hoá của nhân dân, đặc biệt là chính sách tiêu dùng, chính sách khoa học và công nghệ, chính sách đối nội và đối ngoại, chính sách dân số, chính sách xuất nhập khẩu có ảnh hưởng to lớn đến thị trường: Làm mở rộng hay thu hẹp thị trường.
+ Các nhân tố tâm sinh lý: Các nhân tố này tác động đến cả người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng, thông qua đó sẽ tác động đến cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch vụ.
+ Các nhân tố thời tiết, khí hậu: Các nhân tố này cũng ảnh hưởng đến sản xuất, năng xuất lao động tiêu dùng, tốc độ tiêu thụ và cuối cùng là ảnh hưởng đến cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch vụ.
- Trên góc độ tác động của cấp quản lý đến thị trường, có thể phân thành các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô và các nhân tố thuộc quản lý vi mô.
+ Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô như chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân, luật pháp nhà nước, thuế, lãi suất tín dụng, tỷ giá hối đoái, giá cả ... Tất cả những nhân tố này được coi là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết thị trường thông qua sự tác động trực tiếp vào cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác, chính những công cụ này tạo ra môi trường kinh doanh. Các doanh nghiệp muốn làm ăn có hiệu quả, con đường quan trọng là phải tìm mọi biện pháp để vận dụng một cách thích hợp các loại nhân tố này.
+ Các nhân tố thuộc quyền quản lý vi mô như chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh, kế hoạch sản xuất kinh doanh, phương án sản phẩm, giá cả, phân phối, các biện pháp xúc tiến bán hàng, yểm trợ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ (quản cáo, hội chợ, triễn lãm, giới thiệu sản phẩm) các nhân tố này được coi là những công cụ để quản lý doanh nghiệp nhằm tạo ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường và xã hội thông qua mối quan hệ cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch vụ thích hợp để phát triển và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
1.1.4. Nghiên cứu nhu cầu thị trường:
a. Những vấn đề chung của việc nghiên cứu nhu cầu thị trường:
- Việc nghiên cứu nhu cầu thị trường được coi là hoạt động có tính chất tiền tệ của công tác kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nghiên cứu nhu cầu của thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác định đúng đắn phương hướng phát triển sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
- Việc nghiên cứu nhu cầu thị trường luôn luôn được coi là vấn đề phức tạp, phong phú và đa dạng. Do đó, đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu thích hợp và chấp nhận sự tốn kém.
- Để nắm được nhu cầu của thị trường, kinh nghiệm thực tiễn của nhiều doanh nghiệp ở các nước cho thấy, người nghiên cứu phải tuân theo trình tự sau:
+ Một là: Tổ chức hợp lý việc thu nhập các nguồn thông tin về nhu cầu của thị trường.
+ Hai là: Phân tích và sử lý đúng đắn các loạ thông tin đã thu thập được về các loại nhu cầu của các thị trường.
+ Ba là: Xác định nhu cầu của từng loại thị trường mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng.
b. Kết quả nghiên cứu nhu cầu của các loại thị trường phải trả lời được các loại sau đây:
- Những loại thị trường nào được coi là triển vọng nhất đối với hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp.
- Những loại mặt hàng nào có khả năng tiêu thụ được với khối lượng lớn nhất và phù hợp với năng lực của doanh nghiệp.
- Những nhu cầu chủ yếu của từng loại thị trường đối với các loại hàng hoá và dịch vụ như chất lượng, đồ bao gói, mẫu mã, phương thức vận chuyển và phương thức thanh toán.
- Dự kiến về mạng lưới tiêu thụ và phương thức phân phối tiêu thụ.
1.1.5. Vai trò của thị trường với sự phát triển của doanh nghiệp:
Thị trường giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Ơ nước ta trong nền kinh tế hiện nay "thị trường vừa là mục tiêu, vừa là căn cứ của kế hoạch hoá". Đối với các doanh nghiệp, thị trường là bộ phận chủ yếu trong môi trường kinh tế xã hội. Hoạt động bên ngoài của các doanh nghiệp được tiến hành trong môi trường phức tạp, bao gồm nhiều bộ phận khác nhau như môi trường dân cư, môi trường văn hoá, môi trường chính trị ... thị trường chính là nơi hình thành và thực hiện các mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài. Thị trường như một cầu nối, nhờ đó mà doanh nghiệp mới thực hiện được mối quan hệ với người tiêu dùng, với các đơn vị kinh tế khác, với nghành kinh tế và với hệ thống kinh tế quốc dân.
Thị trường còn đảm bảo các hoạt động bình thường của quá trinhg sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp. Trao đổi là khâu quan trọng và phức tạp của quá trình sản xuất diễn ra trên thị trường. Hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường nếu diễn ra tốt, lành mạnh sẽ giúp cho việc trao đổi hàng hoá được tiến hành nhanh chóng, đều đặn. Ngược lại, khi thị trường không ổn định, hoạt động trao đổi hàng hoá bị trì trệ hoặc không thực hiện được sẽ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy, thị trường có vai trò quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Vấn đề thị trường ngày càng trở nên quan trọng trong quản lý kinh tế cũng như trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Cơ chế thị trường:
Cơ chế thị trường chính là môi trường về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật mà đặc trưng nhất của cơ chế là hệ thống đường lối chính sách của đảng và nhà nước. Trong phạm vi của doanh nghiệp đó là hệ thống các nội quy, quy chế về quản lý và điều hành quá trình sản xuất và kinh doanh tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế phát triển theo hướng thống nhất.
Cơ chế thị trường được hình thành với sự tác động tổng hợp của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường. Đó là các quy luật về giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ ... Các quy luật này tạo thành hệ thống các quy luật và hệ thống này tạo ra cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường có những đặc điểm sau:
- Thị trường vừa được coi là yếu tố quyết định của quá trình tái sản xuất hàng hoá, dịch vụ, vừa được coi là mục tiêu khâu kết thúc của quá trình sản xuất.
- Thị trrường điều tiết nền kinh tế xã hội thông qua việc đáp ứng các nhu cầu của thị trường và xã hội. Về hàng hoá và dịch vụ. Do đó khuyến khích được sản xuất còn tiêu dùng được hướng dẫn.
- Lợi nhuận tối đa được coi là động lực, còn cạnh tranh là phương thức hoạt động của thị trường.
Sự điều tiết của hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường dưới tác động của quy luật kinh tế thị trường đã mang lại những tích cực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên ngoài những mặt tích cực của cơ chế thị trường ta cũng thấy những mặt hạn chế của cơ chế thị trường, để có biện pháp khắc phục, như việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế, những chế định pháp luật của nhà nước để can thiệp vào thị trường sẽ đảm bảo được lợi ích của người tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy việc xuất hiện cơ chế thị trường giúp cho các doanh nghiệp tự khẳng định được sự tồn tại của doanh nghiệp ngoài ra còn xác định được mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là: Sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của thị trường, tìm cách duy trì và mở rộng thị trường thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mặt hàng, phương thức bán hàng ... Tạo điều kiện tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
1.3. Các quy luật đặc trưng của nền kinh tế sản xuất hàng hoá:
Trên thị trường diễn ra nhiều hoạt động về kinh tế, có nhiều mối quan hệ phức tạp diễn ra vì thế cũng xuất hiện nhiều quy luật kinh tế khác nhau đan xen. Nhưng cơ bản trong nền kinh tế hàng hoá có ba quy luật sau:
1.3.1. Quy luật giá trị:
Là quy luật cơ bản của nền kinh tế hàng hoá, căn cứ vào đó mà hàng hoá được trao đổi theo số lượng lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất hàng hoá. Quy luật giá trị kích thích những ngưởi ngoài sản xuất chú ý đến sự hao phí lao động xã hội cần thiết và gia sức giảm hao phí lao động cách biệt xuống. Quy luật này cần điều tiết sự phân phối lao động xã hội và tư liệu sản xuất giữa các nghành thông qua cơ cấu giá của thị trường.
1.3.2. Quy luật cung - cầu:
Biểu hiện quan hệ lớn nhất của thị trường: Cầu là lượng hàng hoá, dịch vụ người mua muốn mua tại mỗi mức giá. Nếu các yếu khác giữ nguyên, khi giá càng thấp thì cầu càng lớn; Cung là lượng hàng hoá,dịch vụ người bán muốn bán ở mỗi mức giá. Nếu cố định các yếu tố khác, khi giá càng cao thì lượng cung càng lớn.
1.3.3. Quy luật cạnh tranh:
Là cơ chế vận động của thị trường, có thể nói thị trường là "chiến trường", là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh. Các hình thức cạnh tranh cơ bản trên thị trường đó l