Đề tài Quá trình cài đặt internet explore

Trước sự phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin và ngày nay mạng internet đã được ứng dụng phổ biến và rộng rãi trên toàn cầu. Trong tương lai nó sẽ được phổ cập đến mọi người dân bởi những tiện ích mà mạng internet mang lại cho người sử dụng rất nhiều tính năng hữu ích, đặc biệt là những ứng dụng trên internet rất rễ sử dụng, cước phí sử dụng trên internet cực rẻ so với cước phí của các dịch vụ có tính năng tương tự.

doc19 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quá trình cài đặt internet explore, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I Lời mở đầu Trước sự phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin và ngày nay mạng internet đã được ứng dụng phổ biến và rộng rãi trên toàn cầu. Trong tương lai nó sẽ được phổ cập đến mọi người dân bởi những tiện ích mà mạng internet mang lại cho người sử dụng rất nhiều tính năng hữu ích, đặc biệt là những ứng dụng trên internet rất rễ sử dụng, cước phí sử dụng trên internet cực rẻ so với cước phí của các dịch vụ có tính năng tương tự... Để trợ giúp thêm cho một số bạn đọc còn bỡ ngỡ với internet bước đầu muốn sử dụng được internet thì chúng ta cần phải làm gì? đồng thời biết thêm một số thông tin về sự hình thành và phát triển của mạng internet qua các thời kỳ và các tiện ích mà internet mang lại. Em đã chọn đề tài”Quá trình cài đặt internet explore” dưới sự hướng dẫn của thày TS: Trương Văn Tú Phó Trưởng Khoa Tin Học Kinh Tế Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. PhầnII Nội Dung Đề án ChươngI Lịch sử hình thành và phát triển của Internet lịch sử hình thành của internet. Xã hội loài người bước vào thế kỷ 21, thời đại khoa học công nghệ phát triển vô cùng nhanh chóng, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ phần mềm phát triển nhanh cả về khối lượng và chất lượng.Về internet thì thông tin cực kỳ phong phú và đa dạng, nó đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mạng internet ra đời đã phần nào đáp ứng và giải quyết một số công việc cấp bách như: việc sắp xếp, tìm kiếm,trao đổi khối lượng thông tin khổng đó một cách khoa học, dễ sử dụng, tiện lợi,...Mạng internet đã được bắt đầu từ: Cơ quan dự án nghiên cứu tiến bộ ARPA (advanced research projects agency) trực thuộc bộ quốc phòng mỹ đã bắt đầu hướng tới công nghệ liên mạng từ những năm 70. Kiến trúc và giao thức của công nghệ này được định ra vào những năm 78-79. Vào thời kỳ này ARPA là cơ quan đầu tiên tài trợ cho việc nghiên cứu mạng chuyển gói và đi tiên phong trong nhiều ý tưởng mới như: ARPANET.ARPANET sử dụng quy ước Điểm.Điểm để thuê đường liên kết, đồng thời ARPA cũng tài trợ cho việc tìm kiếm cách chuyển mạch gói trên mạng lưới phát thanh và các kênh truyền thông vệ tinh. Năm 1983 uỷ ban cấu hình và điều khiển internet được thành lập. Sự chuyển tiếp tới công nghệ internet bắt đầu dần hoàn thiện vào tháng 1-1983 khi bộ quốc phòng mỹ yêu cầu tất cả các máy tính kết nối trên mạng phải dùng TCP/IP (TCP: transmission control protocol bộ giao thức internet, IP: internet protocol giao thức điều khiển truyền tin/giao thức internet). Cùng thời gian này thì cơ quan truyền thông của bộ quốc phòng mỹ tách ARPANET ra thành 2 phần: một phần cho việc nghiên cứu tiếp, phần còn lại cho truyền thông quốc phòng. Phần để nghiên cứu lấy tên như cũ ARPANET, phần cho quốc phòng được gọi là mạng quân sự hay là MILNET. Để khuyến khích các nhà nghiên cứu ở các trường đại học chấp nhận và sử dụng các giao thức mới, ARPA đã tiến hành một số bổ sung, bởi thời kỳ đó phần lớn các khoa máy tính ở các trường đại học đều chạy một phiên bản của hệ điều hành UNIX của trường đại học California,Berkeley Software Distribution ở Hoa Kỳ, nó thường được gọi là Berkeley UNIX hay BSD UNIX. Bằng việc tài trợ cho Bolt Beranek and newman Inc (BBN), bổ sung các giao thức TCP/IP của họ và sử dụng với UNIX đồng thời tài trợ cho Berkeley để thống nhất các giao thức, ARPA có thể chiếm tới hơn 90% các khoa máy tính trong các trường đại học. Phần mền giao thức mới đã có ý nghĩa quan trọng trong thời gian đó và đạt được những kết quả tốt. Sự phân phối phần mềm Berkeley trở nên phổ biến vì nó không chỉ cung cấp các giao thức TCP/IP căn bản mà còn cung cấp cho người sử dụng các ứng dụng chuẩn TCP/IP. Bên cạnh các chương trình tiện ích, Berkeley UNIX còn cung cấp sự trừu tượng ở mức hệ đIều hành được gọi là Socket, nó cho phép các chương trình ứng dụng các giao thức truyền thông như: trong cơ cấu của UNIX cho I/O, Socket có các tuỳ chọn cho một số kiểu của các giao thức mạng. Thành công của công nghệ TCP/IP và internet trong giới tin học đã thúc đẩy các nhóm ngành khác chấp nhận nó. Bởi vậy trong thời điểm đó mạng truyền thông đã trở thành mục tiêu chính và chủ yếu trong các công trình nghiên cứu khoa học. Tổ chức khoa học quốc gia Hoa Kỳ đã có vai trò tích cực trong việc mở rộng TCP/IP và internet. Đầu năm 1985 nó chỉ là chương trình thiết lập sự truy nhập mạng quanh 6 chung tâm máy tính, năm 1986 nó đã được mở rộngvà mạng xương sống diện rộng ra đời gọi là NSFNET (national science foundation ). Tất cả các mạng do NSF tài trợ đều dùng các giao thức TCP/IP và nó là một bộ phận của internet toàn cầu. Trong 7 năm đầu, internet đã phát triển tới hàng trăm mạng thành viên trên khắp nước Mỹ và Châu Âu, đã kết nối khoảng 20,000 máy tính của các trường đại học, chính phủ và các phòng thí nghiệm. Số lượng máy tính được nối mạng và sử dụng internet đã phát triển tới con số quá lớn ngoài sức tưởng tượng. Cuối năm 1987, nó được dự đoán phát triển với tốc độ 15% một tháng. Năm 1994, mạng internet toàn cầu đã có hơn 3 triệu máy tính được nối mạng ở 61 quốc gia. Việc chấp nhận giao thức TCP/IP đã cho internet phát triển không bị giới hạn bởi các dự án được chính phủ tài trợ. Và một số các tập đoàn máy tính lớn chủ chốt cũng như các tập đoàn kinh tế lớn khác đã kết nối với internet như: công ty dầu lửa, ngành công nghiệp ô-tô, các hãng điện tử, các hãng viễn thông.... Các công ty vừa và nhỏ bắt đầu kết nối vào những năm 90. Sự phát triển nhanh chóng đã sinh ra những vấn đề không dự kiến trước được trong dự kiến ban đầu, và thúc đẩy các nhà nghiên cứu tìm ra các kỹ thuật để quản lý mạng rộng hơn, tài nguyên phong phú hơn. Ví dụ như trong thiết kế ban đầu: tên và địa chỉ của các máy tính trên internet được giữ trong một file đơn, và có trên các trạm (site) trên internet. Giữa những năm 80, người ta thấy một trung tâm dữ liệu sẽ không đủ như: các yêu cầu cập nhập file sẽ nhanh chóng vượt quá khả năng của mỗi cá nhân, thậm chí nếu tồn tại một trung tâm chuẩn thì dung lượng của mạng cũng không đủ để cho phép sự phân bổ thường xuyên trên mỗi trạm hoặc truy nhập trực tuyến của mỗi trạm. Những cột mốc lịch sử trên chặng đường phát triển Internet. Năm: 1962 John Licklider, một nhà khoa học tại viện công nghệ Messahusetts đưa ra dự án “Galactic Network” gồm nhiều máy tính được nối với nhau để có thể truy nhập dữ liệu và các chương trình từ bất cứ đâu. Năm: 1968 Các mạng chuyền mạch gói ra đời. Năm: 1969 Khai trương mạng ARPAnet sử dụng Netword Core Protocol với 4 máy chủ. Năm: 1971 Ray Tomlinson của ARPAnet gửi đi bức thông điệp đầu tiên bằng e-mail. Năm: 1977 ARPAnet có 100 máy chủ. Năm: 1979 Usenet được thành lập. Năm: 1983 Xuất hiện thuật ngữ Internet và TCP/IP trở thành giao thức Internet chuẩn. Năm: 1984Các Domain Name Server (DNS) ra đời,Internet có 1.000 máy chủ. Năm: 1987 Internet có 10.000 máy chủ. Năm: 1988 “Sâu Internet” (Internet Worm) gây sự cố cho 6.000 trong tổng số 60.000 máy chủ. Năm:1989 Internet có 100.000 máy chủ. Năm: 1990 Tim Berners-Lee phát triển HTML và World Wide Web, mạng Internet ngưng hoạt động, Internet có hơn 300.000 máy chủ. Archie, cơ chế tìm kiếm Internet đầu tiên được phát triển tại Đại Học McGill ở Mỏnteal. Năm: 1991 Tổ chức khoa học quốc gia Mỹ cho phép các giao dịch của mạng thương mại được quy định trên Internet giúp thương mại điện tử khởi sắc. Năm: 1992 Internet có 1 triệu máy chủ và 50 Web site khắp thế giới. Truyền thông IP được thực hiện lần đầu tiên. Cụm từ “ lướt trên Internet ” xuất hiện lần đầu tiên do Jean Armour Polly sử dụng. Năm: 1993 Mark Andreesen giới thiệu trình duyệt Internet mang tên MóaicX cho các hệ thống chính. Năm: 1994 Internet có hơn 3,2 triệu máy chủ và 3.000 Web Site, HTML2 được công bố. Pizza Hut bán chiếc bánh pizza đầu tiên qua mạng Internet. Năm: 1995 Các giao thức IPv6 được xác định. James Gosling và các lập trình viên của Sun Microsystems giới thiệu Java, CompuServer, AOL và các Prodigy đưa ra khả năng truy cập Internet. Ebay được thành lập, số Web Site trên Internet là 25.000, việc đăng ký tên Domain riêng không còn miễn phí nữa. Năm: 1996 W3 consortium công bố HTML 3.2, xuất hiện các hình thức khởi đầu của XML. Internet coa 10 triệu máy chủ. Dự án Internet2 có tên là Abilene được công bố. Năm: 1997 Internet có 19,5 triệu máy chủ và 1,2 triệu Web Site. Bộ tư lệnh tư pháp Mỹ đệ trình vụ kiện Microsoft về tội vi phạm luật chống độc quyền do công ty này đã dùng Windows 95 để mở rộng trình duyệt Internet Explorer. Năm: 1998 AOL mua Netscape qua chuyển nhượng cổ phần với giá 4,2 tỷ USD. Internet có 36,8 triệu máy chủ và 4,2 triệu trang Web Site, HTML4 ra đời. Năm: 1999 Hãng nghiên cứu thị trường Forrester dự đoán doanh thu bán lẻ trực tuyến sẽ tăng từ 7,8 tỷ USD vào năm 1999 lên 108 tỷ USD vào năm 2003. Virus Melissa xuất hiện làm ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trên thế giới và làm mọi người bừng tỉnh trước nguy cơ virus qua mạng Internet.General Motors quyết tâm thành lập Site bán hàng trực tuyến, dự báo xu hướng hình thành thị trường kinh doanh trên Internet giữa các công ty. Năm: 2000 Các dịch vụ quảng các trên INternet được sủ dụng rộng rãi trên khắp thế giới. Một số những phát minh mới đã ra đời như chữ ký điện tử đã được đưa vào sử dụng. 3. Một số uỷ ban, tổ chức, hiệp hội được thành lập. Trước tình hình mạng internet phát triển ngoài sức tưởng tượng thì cần phải có một số tổ chức đứng ra làm đầu tầu để định hướng sự phát triển cho đúng đắn và phù hợp, tránh trường hợp phát triển tràn lan không theo một khuôn mẫu nào gây khó khăn cho công tác quản lý, thì khi đó một số uỷ ban, một số tổ chức, hiệp hội đã hình thành. a.Uỷ ban kiến trúc internet. Do bộ giao thức TCP/IP được sinh ra không phải từ một nhà sản xuất hay một tổ chức nào. do đó đã nảy sinh ra rất nhiều những băn khoăn trong giới tin học, và hàng loạt những câu hỏi được đặt ra như: “Ai là người định hướng phát triển kỹ thuật và quyết định tiêu chuẩn cho các giao thức”... Trước tình hình đó thì tổ chức IAB ( Internet Architecture Board ) ra đời. Tổ chức này đã tập trung nghiên cứu, phát triển các giao thức TCP/IP cơ bản, hướng dẫn và chỉ đạo đường nối phát triển của internet, quy định các giao thức nào sẽ trở thành một phần của bộ giao thức TCP/IP và một số nguyên tác có tính công khai. Vào giữa năm 1989, công nghệ TCP/IP và internet đều phát triển vượt quá những dự án nghiên cứu ban đầu và trở thành phương tiện hữu dụng giúp hành ngàn người sử dụng có thể giải quyết những công việc hàng ngày của họ. Khi đó tổ chức IAB đã làm một số các công việc sau: Tổ chức IAB được chia thành hai bộ phận chính. Nhóm 1: có nhiệm vụ nghiên cứu kỹ thuật internet IETF (Internet Engineering Task Force). IETF được chia thành 12 vùng và mỗi vùng đều có các giám đốc riêng. chủ tịch IETF và các giám đốc vùng hợp lại thành nhóm Định hướng kỹ thuật internet gọi là IESG (Internet Engineering Steering Group), các cá nhân có trách nhiệm phối hợp với các nhóm làm việc của IETF. Nhóm 2: có nhiệm vụ nghiên cứu internet IRTF ( Internet Research Task Force ). IRTF là một bản sao của IETF.IRTF phối hợp các hoạt động nghiên cứu liên quan tới các giao thức TCP/IP hoặc kiến trúc liên mạng tổng thể. Cũng như IETF thì IRTF cũng có một nhỏ là IRSG ( Internet Research Steering Group ). IRSG sắp xếp sự ưu tiên và phối hợp các hoạt động nghiên cứu. Khác với IETF, IRTF chỉ là một tổ chức nhỏ và ít hoạt động. Mỗi thành viên IRSG làm chủ tịch nhóm nghiên cứu internet. Các nhóm làm việc IRTF không chia vùng. b.Hiệp hội Internet. Hiệp hội ỉnternet là một tổ chức quốc tế có tên gọi là The Internet Society được Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ thành lập năm 1992. Hiệp hội này được hình thành để khuyến khích mọi người tham gia internet, giúp đỡ mọi người tham gia và sử dụng internet trên khắp thế giới. c.Các giao thức và tiêu chuẩn hoá Internet. Như chúng ta đã biết các mạng truyền dữ liệu có nhiều chuẩn giao thức truyền thông cùng tồn tại . phần nhiều trong số các giao thức đó đã có trước Internet, vì vậy trong số rất nhiều người quan tâm đến Internet đã có một số câu hỏi đặt ra như: “ Tại sao các nhà thieets kế Internet lại sáng tạo ra nhiều giao thức mới trong khi có nhiều tiêu chuẩn quốc tế cùng tồn tại như vậy ? ” câu hỏi rất khó trả lời, nhưng có thể lý giải nó sở qua như: “ dùng các giao thức đang có như tiêu chuẩn, chỉ sáng tạo các chuẩn mới khi các chuẩn đang tồn tại không đáp ứng đủ, và chuẩn bị được thay bằng chuẩn mới khi chúng đã sẵn có và cung cấp chức năng tương đương”. Dẫu cho có nhiều sự xuất hiện trái ngược, bộ giao thức Internet TCP/IP sẽ không bỏ qua hay tránh các chuẩn hiện có, vì nó diễn ra một cách đơn lẻ không có một chuẩn nào đang tồn tại nào có thể thoả mãn cho hệ thôngs truyền thông liên hợp liên mạng cả. ChươngII: cách thức cài đặt internet explorer I. một số điều cần biết khi làm quen với Internet explorer. Bắt đầu từ phiên bản win 95 OSR2, trình duyệt IE (Microsoft Internet explorer) được tích hợp vào win95 như một thành phần thiết yếu của hệ môi trường này. Trong windows 98 thì IE đã được tích hợp trong đó rồi. Để cài đặt trình duyệt Internet explorer bạn cần có máy tính được cài đặt chương trình Windows 95, 97 hoặc Windows 98 Cấu hình máy tính tối thiểu phải là 486-DX, 8 MB, trên 200 MB đĩa cứng. II. công việc cài đặt. Sử dụng bộ đĩa nguồn của Windows 98 hoặc đĩa CD chứa chương trình nguồn IE 4.0. Sau đó: Bước1: Chọn lệnh Run trên Start menu Bước2: Chọn SETUP.EXE từ bộ đĩa nguồn của IE 4.0. Hệ chương trình tự động tìm đúng vị trí để khởi động. Bạn đã hoàn thành công việc cài đặt. III.Một số thao tác với IE 4.0. Nhập địa chỉ cách 1: Gõ URL vào trong address box nằm dưới thanh công cụ rồi ấn Enter.. cách 2: Chọn mục File từ menu Chọn tiếp mục Open. Hộp hội thoại xuất hiện, gõ URL vào Open box rồi ấn Enter. Cách 3: Chọn Run từ menu Start của Windows Gõ URL vào Run rồi ấn Enter. Đến với trang Web mới. Trong trang Web thường có nhiều siêu văn bản, đó là các nơi có các mối liên kết, trỏ tới địa chỉ của các trang Web khác, ta dễ dàng nhận ra vì chúng có mầu sắc, định dạng nổi bật hơn các dòng văn bản khác. Bạn muốn đọc những thông tin trên các siêu văn bản thì bạn chỉ cần: Đưa chuột đến đó, khi đó con trỏ chuột chuyển thành hình ngón tay. Nháy trỏ chuột trái hoặc phải rồi chọn từ menu mục Open Về trang trước-Đến trang sau. Trở về trang trước: Cách1: Nháy trỏ chuột vào nút Back trên thanh công cụ (Toolbar ) Cách 2: Nhấn tổ hợp phím ALT- Cách 3: Chọn từ menu : Go/Back. Đi đến trang sau: cách 1: Nháy trỏ chuột vào nút Forward trên thanh công cụ cách 2: Nhấn tổ hợp phím ALT- cách 3: Chọn từ menu : Go/ Forward. 4. Tạm ngừng quá trình truyền tải a. Trường hợp 1: Trong lúc IE đang thực hiện truyền tải thông tin như: đang tải xuống( download ), tải lên ( upload ), tìm kiếm, nhận một trang Web, một hình ảnh, đoạn phim hay đoạn nhạc... thì bạn có thể ngắt ngang nó bằng cách: Cách 1: Nháy trỏ chuột vào nút Stop trên thanh công cụ Cách 2: Nhấn phím ESC Cách 3: Chọn từ menu View/Stop. b.Trường hợp 2: Trang Web vừa nhận dở dang do bạn ngắt ngang vẫn hiển thị và cho phép bạn sử dụng thông tin đó. Bây giờ, nếu muốn tiếp tục nhận phần còn lại của trang Web thì bạn chỉ cần: cách 1: Nháy trỏ chuột vào nút Refresh trên thanh công cụ cách 2: Nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn Refresh từ menu cách 3: Nhấn phím F5 cách 4: Chọn từ menu: View/ Refresh. 5. Trở về trang chủ( Home/Start page ). Để trở về trang chủ thông thường thì đó là trang đầu tiên của một Web site, bạn có thể: Nháy trỏ chuột vào nút Home trên thanh công cụ Chọn từ menu: Go/Start page. 6. Làm tươi trang Web( Refresh). Để làm tươi trang Web ( nạp lại trang này ), bạn có thể: -Nháy trỏ chuột vào Refresh trên thanh công cụ -Nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn mục Refresh từ menu. -Nhấn phím F5 -Chọn từ menu: View/Refresh. 7. Sử dụng Favorites. Vì WWW có rất nhiều trang Web, do đó các bạn có thể chọn hoặc tìm được những trang mà mình thích nhất. Để ghi nhớ nhanh trang này, bạn dùng Favorites. Để tạo một Favorites cho trang Web hiện hành thì bạn có thể làm các cách sau: Cách 1: Nháy chuột vào nút Favorites trên thanh công cụ rồi chọn mục Add to Favorites Cách 2: Nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn mục Add to Favorites từ menu. Cách 3: Chọn từ menu: Favorites/Add to Favorites Cách 4: Đặt tên cho Favorites này rồi nhấn Enter Để tạo Favorites cho trang Web được chỉ đến bởi một siêu văn bản, bạn hãy nháy trỏ chuột phải vào siêu văn bản này rồi chọn từ menu mục Add to Favorites Khi muốn đến một Favorites nào, bạn chỉ cần nháy trỏ chuột vào nút Favorites trên thanh công cụ rồi nháy trỏ chuột chọn từ danh sách Favorites cần đến. Tổ chức Favorites ( organize Favorites ). Nếu có quá nhiều Favorites đặt trong thư mục sẽ làm bạn khó tìm hoặc rất khó chịu, do vậy mà bạn cần phải tổ chức lại Favorites. Bạn có thể làm bằng cách sau: Nháy trỏ chuột vào nút Favorites trên thanh công cụ, chọn tiếp mục Organize Favorites hoặc từ menu ta chọn: Favorites/Organize Favorites. Khi đó hộp hội thoại xuất hiện cho phép bạn: tạo thư mục (Folder ) mới để chứa các Favorites, dời các Favorites vào các Folder mới tạo lúc này bạn có thể kiểm soát được dễ dàng hơn, bạn có thể xoá bớt các Favorites mà bạn không sử dụng đến hoặc có thể đổi tên các Favorites. 8. Sử dụng Hitory. Đó là danh sách các trang Web mà bạn đã từng sử dụng “ghé thăm”. bạn có thể Chọn menu Go rồi chọn tiếp tên trang Web mà bạn muốn đến, sau mỗi lần làm việc của IE, danh sách này sẽ bị xoá. Chọn từ menu: Go/Open History Folder, nháy kép trỏ chuột vào trang Web cần đến trong danh sách. Nó sẽ cho phép bạn đến một trang Web mà bạn từng “ghé thăm” ở lần làm việc trước đó. 9. Làm việc với các Shortcut. Bạn có thể tạo Shortcut cho URL và đặt chúng vào một Folder hoặc trên màn hình nền (desktop) của Windows để tiện truy xuất. Để tạo một Shortcut bạn có thể làm bằng cách: Nháy trỏ chuột phải vào desktop, chọn từ menu mục New, chọn tiếp mục Shortcut. Gõ URL vào hộp Command Line rồi chọn Next để dặt tên cho Shortcut này. cuối cùng nhấn Finish để hoàn tất. Dùng các thao tác kéo thả hoặc cắt dán để tạo Shortcut từ Favorites hoặc History. Tạo Shortcut cho trang Web hiện hành: nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn từ menu mục Create Shortcut. Tạo Shortcut cho trang Web được chỉ đến bởi một siêu văn bản: nháy trỏ chuột phải vào siêu văn bản rồi chọn mục Copy Shortcut từ menu. Shortcut sẽ được đặt vào Clipboard. * Để mở trang Web từ một Shortcut bạn cá thể làm: Nháy kép trỏ chuột hoặc kéo rẽ và thả “ The Internet” Shortcut trên màn hình nền hoặc kéo rẽ và thả vào cửa sổ IE đang mở Chọn từ danh sách Favorites của IE nếu Shortcut này nằm trong thư mục Favorites. 10. Gửi E-Mail từ một trang Web trong IE. * Kết hợp với Microsoft Exchange, IE có thể giúp chúng ta gửi E-Mail dễ dàng. Thế nhưng, có một điểm bất lợi như: MS-Exchange là một chương trình lớn, nên thời gian nạp ứng dụng này khá lâu. Nhưng ngược lại MS-Exchange là chương trình cung cấp những tính năng về E-Mail vượt trội so với những công cụ E-mail tích hợp trong một số trình duyệt khác. Do đó, nếu chúng ta thường dùng IE để gửi E-Mail thì nên khởi động MS-Exchange trước. Để gởi một E-Mail, bạn có thể: Nháy trỏ chuột vào nút Mail trên thanh công cụ, rồi chọn mục New Message, khi đó của sổ New Message mở ra cho bạn làm việc. Địa chỉ e-mail thường xuất hiện dưới một siêu văn bản trong trang Web, giúp bạn dễ dàng liên lạc và góp ý kiến với người chủ trang Web, bạn có thể: Nháy kép chuột trái vào đó, cửa sổ New Message mở ra với địa chỉ e-mail được điền sẵn , bạn đã có thể làm việc với e-mail và gửi đi bằng cách nháy trỏ chuột trái vào nút Send trên thanh công cụ. Sau đó, bạn muốn trở lại IE bằng cách nháy trỏ chuột trái vào biểu tượng của ứng dụng IE trên thanh tác vụ ( Taskbar ); Khi một địa chỉ e-mail xuất hiện trong trang Web nhưng không phải là một siêu văn bản thì bạn phải: + Gõ vào Address box của IE giao thức mailto: + Chép và dán địa chỉ e-mail từ trang Web vào phần tiếp theo của URL này rồi ấn Enter, khi đó bạn sẽ thấy cửa sổ New Message xuất hiện