Đề tài Quan điểm đổi mới phải toàn diện nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm

Tháng 12 năm 2006. Việt Nam gia nhập tổ chức thế giới WTO- tổ chức thương mại thế giới. Hội nhập quốc tế, Việt Nam đang đứng trước hàng ngàn những cơ hội mới và cả những thách thức mới. Nhưng để đón nhận những cơ hội đó cũng như giải quyết được những thách thức mới thì một tất yếu lịch sử của nền kinh tế Việt Nam là phải đổi mới. Nhưng đổi mới cái gì và phải đổi mới như thế nào?Trong hoàn cảnh hiện nay đổi mới đất nước là một vấn đề hết sức quan trọng đươc đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân.

doc17 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm đổi mới phải toàn diện nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu Tháng 12 năm 2006. Việt Nam gia nhập tổ chức thế giới WTO- tổ chức thương mại thế giới. Hội nhập quốc tế, Việt Nam đang đứng trước hàng ngàn những cơ hội mới và cả những thách thức mới. Nhưng để đón nhận những cơ hội đó cũng như giải quyết được những thách thức mới thì một tất yếu lịch sử của nền kinh tế Việt Nam là phải đổi mới. Nhưng đổi mới cái gì và phải đổi mới như thế nào?Trong hoàn cảnh hiện nay đổi mới đất nước là một vấn đề hết sức quan trọng đươc đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân. Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã tiến hành đổi mới kinh tế. Từ những năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ mang tính chất tự cung, tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng lạc hậu, khủng hoảng kéo dài, đời sống nhân dân bấp bênh khổ cực thiếu thốn. Chính vì vậy, Đảng ta đã tìm ra con đường đúng đắn nhất để đổi mới đất nước dựa trên cơ sở quan điểm triết học là đổi mới phải toàn diện nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm. Như chúng ta biết, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới tư duy lý luận, đề ra nhiệm vụ khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội trong đó có triết học. Qua hơn 5 năm thực hiện đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, trong đó có đổi mới tư duy lý luận. Trong những năm đầu đổi mới chúng ta đã giành được nhiều thành tựu đáng kể. Song cũng có không ít những bất cập. Trước xu thế toàn cầu hóa hội nhập nền kinh tế thế giới Việt Nam cần phải có một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Do đó Đảng và nhà nước ta cần phải có những giải pháp đúng đắn trên quan điểm toàn diện để lãnh đạo, hoàn thiện nền kinh tế nước ta. Để nhận thức và tìm ra được hướng đi đúng thì phải dựa trên nền tảng triết học Mác-Lênin. Vì vậy trong nghiên cứu này chúng ta sẽ đi làm rõ hơn quan điểm toàn diện của triết học Mác - Lê nin và cơ sở lý luận của triết học về quan điểm: “đổi mới phải toàn diện nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm” để từ đó thấy được ảnh hưởng to lớn của nó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta. Đồng thời tìm ra những hạn chế và những khả năng, thực trạng nền kinh tế nước ta để từ đó vạch ra những biện pháp, những hướng giải quyết đúng đắn đưa nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung I. Quan điểm đổi mới phải toàn diện nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm. 1.Khái niệm về quan điểm toàn diện Quan điểm toàn diện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể thống nhất các sự vật, hiện tượng và quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và cải cách hoá lẫn nhau. Cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất thế giới. Theo quan điểm này các sự vật các hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạn tồn tại khác nhau của một thế giới nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng ý thức của con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ ốc người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó có mối liên hệ bên ngoài có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới, có mối liên hệ trực tiếp có mối liên hệ gián tiếp, có mối liên hệ bản chất, có mối liên hệ không bản chất, liên hệ tất yếu, liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau, có mối liêh hệ giữa các mặt khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật hiện tượng nào cũng vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành một lịch sử phát triển hiện thực cuả các sự vật và các quá trình tương ứng. Từ việc nghiên cứu nguyên lý và mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật và hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật và hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng sự vật. Chúng ta phải xem xét nó, một là trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó, hai là trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác ( kể cả trực tiếp và gián tiếp). Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật. Chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người ứng với mỗi con ngưoừi mỗi thời đại và trong mỗi hoàn cảnh lịch sử nhất định con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. ý thức được điều đó chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật, và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ xung, không thể phát triển. Để nhận thức được sự vật, chúng ta cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ “cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc”. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hẹ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Từ những điều vừa trình bày trên đây có thể rút ra kết luận rằng, quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật sẽ trải qua các giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật đó và cuối cùng, khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn để cải tạo sự vật chúng ta phải biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác. Muốn thế phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi những liên hệ tương ứng. Quan điểm toàn diện hoàn toàn khác với thuật nguy biện chúng đều là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm trong xem xét các sự vật và hiện tượng. Lưu ý khi xem xét sự vật trên quan điểm toàn diện phải hiểu rằng mọi sự vật tồn tại trong không gian thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian, thời gian đó. Do vậy, chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đặt trong tình hình nước ta hiện nay, trong công cuộc đổi mới đát nước, Đảng ta phải có chủ trương hợp lý và đường lối đúng đắn để đưa đất nước đi lên trên con đường đổi mới. 2. Đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống Trong công cuộc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta, việc đổi mới là tất yếu. Thế nhưng không thể chỉ đổi mới trên một phương diện nào đó mà phải đổi mới toàn diện, đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội, đổi mới chính sách tài chính, đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, đổi mới cơ chế, giáo dục, giao thông, đổi mới tư duy lý luận..v..v... Đảng ta đã vận dụng quan điểm đổi mới toàn diện vào sự nghiệp đổi mới đất nước và đã có được những kết quả tích cực. Trước sự phát triển mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới và những thay đổi hiện nay của thời đại, giới triết học nghiên cứu bản chất và hiệu quả xã hội có tính toàn cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, biện chứng của thời đại, từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cho quá trình đổi mới xã hội ta, đồng thời nêu ra những biện pháp tích cực nhằm khai thác và phát huy mọi khả năng hiện có, chủ yếu là sắp xếp lại sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, vận dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, thực hành tiết kiệm triệt để, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước,v..v.. 3.Vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước Trong quá trình đổi mới không thể chỉ đổi mới trên một lĩnh vực hoặc không quan tâm chú trọng đến một lĩnh vực nào đó, mà cần thiết phải có một sự thống nhất tương đối giữa các lĩnh vực trong đời sống. Tất cả phải cùng được tiến hành, phối hợp với nhau tạo nên một diện mạo mới cho đất nước mà người lãnh đạo chính là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì thế trong những người lãnh đạo Đảng phải có nhận thức đúng đắn, phải nắm vững hệ tư tưởng Mac-Lênin để có thể đưa ra nhưng lối đi đúng. Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đặc biệt chú ý đến việc lãnh đạo quá trình cải cách Nhà nước ta theo hướng chung là: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam”. Đảng ta chỉ rõ: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp... Cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng bộ máy tinh gọn nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước”. Chính vì thế vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước, sự nhận thức đúng đắn, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa, quyết định sự thành bại trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay. Vai trò quản lý điều tiết kinh tế của nhà nước là yếu tố không thể thiếu được một đòi hỏi khách quan của sự phát triển nền kinh tế. Nhà nước điều chỉnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và định hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế . Nhà nước tạo môi trường kinh tế thuận lợi, môi trường pháp lý trên và đủ cho sự hoạt động của nền kinh tế tạo ra những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế. Vai trò của nhà nước thể hiện ở chức năng điều tiết, kiểm tra. Kiểm tra, kiểm soát các thành phần kinh tế, đảm bảo sự thống nhất tăng hướng kinh tế với công bằng xã hội. Nhà nước phải có môi trường pháp lý, xâyd ựng và phát triển kinh tế nhiều thành phần phải có sự quản lý của Nhà nước. Nội dung và phương tiện quản lý của nhà nước đối với các thành phần kinh tế là pháp luật và hành lang pháp lý Như vậy, Đảng và Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng và to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như trong việc đổi mới đất nước đất nước. 4. Đổi mới kinh tế là trọng tâm. Đổi mới là một quá trình có nội dung toàn diện của cả xã hội ta, song có trọng điểm đó là trên cơ sở ổn định, phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, trên cơ sở đó từng bước đổi mới hệ thống chính trị đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của mọi lĩnh vực xã hội. Đổi mới trong sự ổn định để phát triển đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới phải toàn diện nhưng lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thực chất của thời kỳ này là nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân lao động tự đảm đương nhiệm vụ lịch sử phát triển lực lượng sản xuất, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hanh theo cơ chế thị trường. Xu hướng khách quan sự tăng trưởng kinh tế của nhân loại đến một trình độ nhất định làm xuất hiện sự phát triển kinh tế thị trường. Nhưng kinh tế thị trường có thể phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa. Như thế xu hướng khách quan chưa chỉ đảm bảo để kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn đòi hỏi các nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan bao đảm cho sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam là : -Thứ nhất : Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng hoạt động với tư cách là người tổ chức và lãnh đạo, định hướng mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiệm vụ của Đảng hướng vào tổ chức, xây dựng, phát triển đất nước mà tăng hướng kinh tế trở thành nhiệm vụ trung tâm. Đảng cầm quyền cần được nhận thức với nội dung cơ bản là : Xác định mục tiêu chính trị, định hướng chính trị cho sự phá triển kinh tế xã hội công bằng, cương lĩnh đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội công bằng cương lĩnh đường lối chiến lược phát triển, bằng những nguyên tắc và chính sách lớn trong đối nội và đối ngoại. Yêu cầu của mọi sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng có trí tuệ, sáng tạo trong hoạch định cương lĩnh, chiến lược và sách lược nhằm thực hoá bản chất lớn đẹp của chủ nghĩa xã hội trong cuộc sống. -Thứ hai : Xây dựng nhà nước Việt Nam vững mạnh trong sạch quản lý kinh tế xã hội có hiệu quả. Phải xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền là nấc thang của văn minh nhân loại trong lĩnh vực quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền đạt trình độ phát triển rực rỡ trong chủ nghĩa tư bản. Ngày nay Đảng ta cũng sử dụng nó để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. -Thứ ba : Tính nhân văn, tính dân tộc trong phát triển kinh tế Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phương tiện, phương thức khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo của cả cộng đồng dân tộc. Như vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước phải hướng tới sự giải phóng mọi tiềm năng của đất nước của nhân dân. Kinh tế đóng vai trò quyết định trong việc đổi mới đất nước, một đất nước có tiềm lực kinh tế lớn, vững vàng sẽ tạo điều kiện để đổi mới các lĩnh vực khác, thì mới có thể đổi mới được đất nước. Vì thế phải lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm. II. Cơ sơ lý luận triết học của quan điểm: “đổi mới toàn diện nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm” Kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị , pháp quyền ,triết học, đạo đúc, tôn giáo , nghệ thuật .v..v..cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội .v..v.. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ quan điểm sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đạc điểm riêng, có quy luật vận đọng phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trêb cơ sở hạ tầng. Song mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi nó cũng dẫn theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng, hay nói cách khác khi cơ cấu kinh tế thay đổi thì mọi linh vực khác của đời sống cũng sẽ thay đổi. Cơ sở lý luận của việc đổi mới kinh tế là trọng tâm. Vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như Nhà nước, pháp quyền, tôn giáo, triết học..v..v...đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn được thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, ít hay nhiều kiến trúc thượng tầng cũng sẽ thay đổi theo. C.Mac viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” (Trích giáo trình triết học Mác-Lênin trang 361). Có nghĩa là khi nền kinh tế thay đổi nó sẽ dẫn đến sự thay đổi của các lĩnh vựckhác như chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật..v..v.. Vì vậy khi nền kinh tế thay đổi nó sẽ kéo theo sự thay đổi của các mặt trong đời sống xã hội. Vì vậy đổi mới kinh tế là một viêc hết sức quan trọng trong nhiệm vụ đổi mới đất nước, cần phải coi đó là mục tiêu trọng tâm trong chiến lược đổi mới. Sự thay đổi của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất-quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lưc lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” (Trích giáo trình triết học Mác-Lênin trang 357). Khi lực lượng sản xuất thay đổi sẽ làm cho quan hệ sản xuất thay đổi dẫn đến sự thay đổi của cơ cấu kinh tế và làm cho kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Vì thế lực lượng sản xuất là rất quan trọng trong việc thay đổi nền kinh tế cũng như thay đổi đất nước. Ngày nay, chúng ta nói đến đổi mới thì trước hết là phải tôn trọng các nguyên lý cơ bản của triết học Mác mà trong nhiều năm chúng ta đã nhận thức không đúng, không thật sự tôn trọng và do đó không suy nghĩ và hành động theo các nguyên lý đó. Đại hội VI đã rút ra là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Vì thế Đảng phải nhận thức đúng đắn để chèo lái con thuyền đất nước đi đúng hướng, phát triển kinh tế, phát triển đát nước. Khi đã có được một nền kinh tế vững vàng, chúng ta sẽ sẵn sàng cho một cuộc cải cách đất nước quy mô và có kết quả. Một đất nước có nền kinh tế ổn định, phát triển, sẽ làm bàn đạp thúc đẩy cho sự phát triển của các lĩnh vực khác và công cuộc đổi mới đất nước. 3.cơ sở lý luận của quan điểm đổi mới toàn diện Đổi mới kinh tế làm trọng tâm tuy nhiên phải đổi mới toàn diện. Các lĩnh vực khác của xã hội như văn hoá , giáo dục ... cũng tạo điều cho phát triển kinh tế. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Có được một nền giáo dục tốt bồi dưỡng được lực lượng sản xuất tốt thì mới làm cho quan hệ sản xuất và khi đó mới phát triển được nền kinh tế không thể có một nền kinh tế phát triển mà văn hoá giáo dục quá lạc hậu. vì thế không chỉ đổi mới kinh tế mà song song mới nó còn phải dần dần từng bước đổi mới tất cả lĩnh vực khác của xã hội vì vậy phải đổi mới toàn diện Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nhưng các yếu tố cấu thành kiến truc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Sự tác dộng của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khach quan thì nó là động lưc mạnh mẽ thúc đảy kinh tế phát triển , nếu tác động ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế , kìm hãm sự phát triển của xã hội . Vì thế cần phải đổi mới toàn diện để chúng tác động qua lại với nhau tạo điều kiện cho nhau phát triển. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ, khó khăn và phức tạp của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản lam cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Phải khắc phục tình trạng trước đây thường vắng bóng lý luận khi thông qua những quyết định quan trọng và do vậy buộc phải đưa quyết định trên cư sở thuần tuý kinh nghiệm. Phả
Tài liệu liên quan