Bước vào thiên nhiên kỷ mới, con người ngày càng càng tiến lên trong công cuộc trinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và trong mọi mặt của đời sống xã hội đã làm thay đổi dần bộ mặt thế giới. Trong sự chuyển biến mạnh mẽđó Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đãđạt được. Những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vấn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều góp phần kìm hãm nền kinh tế. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước. Phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích nền kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trng sự vận động phát triển không ngừng của nó. Do vậy phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin vào quá trình đổi mới kinh tếở Việt Nam.
22 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm lịch sử với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀCƯƠNG
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC
đề tài: Quan điểm lịch sử với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
A - đặt vấn đề
Sự cần thiết phải đổi mới kinh tếở Việt Nam vàđổi mới dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể.
B - giải quyết vấn đề
I - Quan điểm lịch sử cụ thể
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật
3. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
4. Không gian - thời gian.
5. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể
II - Đổi mới kinh tếở Việt Nam chính là quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Sựđổi mới kinh tếở Việt Nam
2. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng nền kinh tếđịnh hướng xã hội chủ nghĩa.
A - ĐẶTVẤNĐỀ
Bước vào thiên nhiên kỷ mới, con người ngày càng càng tiến lên trong công cuộc trinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và trong mọi mặt của đời sống xã hội đã làm thay đổi dần bộ mặt thế giới. Trong sự chuyển biến mạnh mẽđó Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đãđạt được. Những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vấn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều góp phần kìm hãm nền kinh tế. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước. Phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích nền kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trng sự vận động phát triển không ngừng của nó. Do vậy phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin vào quá trình đổi mới kinh tếở Việt Nam.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đổi mới kinh tếở Việt Nam sẽ giúp cho kinh tế nước ta cóđược hướng đi đúng đắn. về thực tiễn nghiên cứu quan điểm lịch sử cụ thể sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta tránh được những mặt xấu, những sai lầm từ nền kinh tế các nước khác và trên hết là vận dụng những kinh nghiệm của nó vào quá trình xây dựng nền kinh tế nước nhà.
B - GIẢIQUYẾTVẤNĐỀCƠSỞLÝLUẬN
I - QUANĐIỂMLỊCHSỬCỤTHỂ
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật.
Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy đều nằm trong mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nương tựa, quy định lẫn nhau làm tiền đềđểđiều kiện cho sự tin đạ và phát triển của nhau. Mối liên hệ này chằng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy và còn diễn ra giữa các yếu tố, các mặt khác, các quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng. Mỗi liên hệ trước đây là khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới, biểu hiện trng các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới làđa dạng và nhiều vẻ có mỗi tiến bộ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu.
2. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiền lên mãi mãi. Phát triển là khuynh hướng chung thống trị thế giới.
Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập. Cách thức hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Khuynh hướng xu thế của sự phát triển làđi từ thấp đến cao, từđơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đền hoàn thiện. Sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi ra so sánh các hình thức tồn tại của sự vật ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai.
3. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thời gian đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện của không gian và thời gian cụ thể xác định, điều kiện không gian và thời gian cóảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khácnhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hẳn bản chất của sự vật.
4. Không gian - thời gian.
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất, có vị trí, có hình thức kết cấu, cóđộ dài ngắn cao thấp - không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau: biểu hiện quãng tính, trật tự phân bố của chúng.
Thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định - Thời gian biểu hiện tốc độ và trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, trích tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian như vậy là những hình thức tồn tại của vật chất, là những thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể. Không gian và thời gian tồn tại khách quan và có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động, triết học Mác - Lênin (trang 13), NXB: Chính trị quốc gia.
5. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu.
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét của cải biến sự vật phải đặt nó trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều kiện không gian ấy cóảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thểảnh hưởng đến sự vật.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới đánh giáđúng giá trị và hạn chế của lý luận đó.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng.
II. đổi mới kinh tếở Việt Nam chính là quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Sựđổi mới kinh tếở Việt Nam
1.1. Quá trình đổi mới kinh tếở Việt Nam.
Đại hội lần thứ VI của Đảng được đánh dấu như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó. Nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường. Tổng kết hai năm thực hiện đại hội VI nền kinh tế phát triển, khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản, đó là những căn cứđểđẩy tới một bước cao hơn. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường (KTTT) với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài, một thị trường thống thông suốt hoà nhập với thị trường thế giới. Thị trường làđối tượng quản lý của Nhà nước.
Thực tế hơn mười năm qua ở nước ta đã chứng tỏ quá trình chuyển kinh tế thị trường theo địng hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình phức tạp lâu dài. Đó là quá trình cách mạng khởi đầu bằng ý nguyện của quần chúng được Đảng nắm bắt tổng kết, định hướng bằng cơ chế, chính sách.là sự dũng cảm nhìn thẳng vào những sai lầm,khuyết điểm từ mô hình cũvới những quan điểm giản đơn từđó quyết tâm đổi mới, coi đổi mới là vấn đề sống còn của dân tộc, chấp nhận KTTT bằng lý trí,tình cảm, bằng sự tìm tòi thử nghiệm từ cuộc sống mà cách đấy vài trục năm trong tư duy kinh tế còn là cuộc đấu tranh gay gắt.
Những chuyển đổi đó thực sứ tạo ra bước ngo ặt kinh tế. Chính một thời gian ngắn, đất nước có nhiều thay đổi. Bước đầu tình trạng suy thoái dần được khắc phục. Cuôc khủng hoảng kéo dài từ cuối thập kỷ 70 và gay gắt vào những năm 80 khi lạm phát ở mức phí và kéo dài. Song nhờ có sự cố gắng của toàn đảng, toàn dân nền kinh tế không những đứng vững mà còn tạo được những tiến bộ vượt bậc đatt tốc đọ tăng trưởng khá liên tục. Tổng sản phẩm trong nước năm 1994tăng 8,5% năm,trong đó sản xuất công nghiệp tăng13%, sản xuất nông nghiệp tăng 45%, kim ngạch xuất khẩu tăng20,8% lạmphát giảm dần thu hút được vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10tỉ USD. Nền kinh tế bước đầu đã có tích luỹ nội bộ, xuất khuẩu tăng và nhập khẩu đã lấy lại cân băng dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thành tựu nổi bật nhất trong thời gian qua là sản phẩm nông nghiệp phát triển từ chõ thiếu lương thực triền miên đến nay chúng ta đã có khả năng tự túc phần nào dự trữ và xuất khẩu. Năm 1998 mặc dù một số vùng gặp thiên tai nhưng sản lượng lương thực đạt tới mức kỷ lục 25 triệu tấn. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và phát huy tác dụng.
1.2 Đổi mới nền kinh tếở Việt Nam thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do nước ta là nước XHCN nền khi đổi mới nền kinh tế thìđi theo nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa. KTTT theo định hướng XHCN là một khái niệm kép. Định hướng theo nghĩa danh từ là nền kinh tế thị trường vận động và trong nó hàm chứa và bị chi phối bởi tính chất XHCN. Và theo nghĩa động từ là tiến trình chếđịnh nền KTTT theo nguyên tắc XHCN nhằm phục vụ CNXH.
Tổng hoà các nghĩa đó, KTTT theo định XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của KTTT vừa dựa trên vàđược dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất CNXG, thể hiện trên ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
2. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình đó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn. Đó là chúng ta đã kịp thời chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN.
Trước tiên cần phải tìm hiểu khái niệm KTTT, KTTT được hiểu là một kiểu kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá, tiền tệ với quan hệ cung - cầu. Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất thì cùng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá như là mắt, khâu trung gian.
Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn đều cóđặc điểm riêng. Trong các giai đoạn đóđã từng có các nền KTTT theo định hướng này hay theo định hướng khác. Đến bây giờ khi nước ta đổi mới, nền kinh tế nước ta đã xác định được một định hướng đúng đắn cho nền KTTT đó làđịnh hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với KTTT tư bản chủ nghĩa, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế vì nhân dân, phục vụ nhân dân, lấy đời sống nhân dân, công bằng xã hội làm mục tiêu để tăng trưởng kinh tế.
2.1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường.
Đến đại hội lần thứ VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương đúng đắn về việc sử dụng KTTT do các đại hội trước đề ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của KTTT: cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN.
2.2. Những hạn chế và khuyết điểm của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh, hơn thếnữa quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy, tuy mới áp dụng KTTT chưa được bao lâu mà bên cạnh những thành tựu như làm ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, thương mại hoá một cách tràn lan, xâm nhập vào các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hoá... làm cho giá trịđạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng thời đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên, bởi sống ích kỷ thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng.
Bởi vậy, Đảng ta chỉ rõ: "Vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền KTTT làđể sử dụng mặt tích cực của nó, phục vụ mục didchj xây dựng XHCN chứ không phải đi theo con đường TBCN"
(Tạp chí triết học số 4 (110), tháng 8 năm 1999).
2.3. Có thể thực hiện được kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội hay không?
Kinh tế thị trường là thể hiện kinh tế vận hành, nó có thểđược thực hiện dưới CNTD cũng như CNXH. Không nên đồng nhất KTTT với CNTB bởi những lý do sau đây:
Một là: KTTT không phải là sản phẩm của TBCN, KTTT là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá và các trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, kinh tế hàng hoá không phải là cái do CNTB tạo ra mà là thành tựu văn minh mà loài người đãđạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình.
Hai là: KTTT là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở kinh tế của một chếđộ xã hội. Cơ sở kinh tế của một chếđộ xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là chếđộ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của CNXH là hệ thống quan hệ sản xuất XHCN dựa trên chếđộ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất.
Ba là: KTTT và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà, vấn đề căn bản để hình thành KTTT là sự tồn tại những chủ thể kinh tếđộc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hoá. Vì vậy, trong đặc điểm chếđộng công hữu XHCN cũng có thể thực hiện được chếđộ KTTT.
Tuy nhiên, trong việc phát triển nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, làm thế nào đề có thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hoá giàu nghèo, giảm bớt thất nghiệp... [Tạp chí cộng sản số 4 (2- 2000)].
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất, nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác - Lênin, mà cụ thể là trong những điều kiện không gian và thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa, thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT quá muộn so với các nước trên thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu... đã tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, CNTB đãđạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, quản lý xã hội đãđạt được những thành tựu về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy cảm tinh tế với khả năng sáng tạo... và có cả những tiêu cực sự gay gắt dẫn đến tình trạng "cá lớn nuốt cá bé" sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kệt, tệ nạn xã hội... là nước đi sau và theo CNXH, chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại trước hết là sử dụng văn minh của KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nóđể xây dựng CNXH có hiệu quả.
Chính vì những lẽđó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
III. quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
1. Những điều kiện cụ thểảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1. Những điều kiện trong nước.
Đầu tiên chúng ta tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước ta khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam năm trứoc đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7% /năm, làm không đủăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉđáp ứng được 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đãđể lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém vơía nền KH - CH, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp, chất lượng kém. Hệ thống giao thông vận tải vốn không được tốt lại thêm bom đạn của chiến tranh nên ngày càng xuống cấp. Công nghiệp, dịch vụ hầu như không phát triển, chiếm tỷ trọng chưa đến 50% GDP còn chủ yếu là nông nghiệp. Bên cạnh đó còn có một hậu quả nặng nề khác là với cơ chế bao cấp phân phối bình quân, lợi ích của mọi người đều như nhau dẫn đến việc không phát huy hết năng lực sáng tạo của con người, lực lượng nhân tài ngày càng giảm sút, trình độ dân trí thấp vàđặc biệt nghiêm trọng là tư tưởng thụđộng ỷ lại, thiếu tính năng động quyết đoán ăn sâu trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản lý kinh tế.
Thứ hai: Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽđến nền kinh tế. Vềđịa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự dị sâu sắc vềđiều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và chiếm được phát triển các vùng. Ta cũng có thuận lợi là nằm ở Tây Thái Bình Dương vàĐông NamÁ, khu vực phát triển cao, ổn định nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế. Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng, ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho việc khai thác sử dụng chúng vàảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân sốđông, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố cũng không đồng đều. Đặc điểm ở cấp vĩ mô, do đất nước bị chia cắt lâu dài, giữa hai miền Nam - Bắc còn có sự khác biệt không nhỏ hoặc khác biệt giữa các vùng, các khu vực xa xôi hẻo lãnh với những vùng cóđô thị tập trung.
Thứ ba: Về chếđộ chính trị quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị - chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Trong tác phẩm Lutuch Phviobac và sự các cung của triết học cổđiển Đức F.Enghon đã chỉ rõ: "để thoã mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉđược sử dụng làm phương tiện đơn thuần". Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tếđối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của chính trịđối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nóđược xem dét giải quyết theo một trật lập trường chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Sa