Trong một nền kinh tế, vốn chính là điều kiện vật chất quan trọng hàng đầu để duy trì hoạt động và phát triển của sản xuất. Nó chính là nguồn lực bên trong đóng vai trò quan trọng để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng kĩ thuật trong sản xuất. Không chỉ có vậy, vốn hay còn gọi là Tư Bản giúp cho những đề án kinh doanh, những ý tưởng táo bạo trở thành hiện thực. Nếu vấn đề về vốn không được giải quyết thì không chỉ nền kinh tế mà cả đất nước sẽ lâm vào khủng hoảng
16 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm toàn diện với việc tìm hiểu hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở đầu
Trong một nền kinh tế, vốn chính là điều kiện vật chất quan trọng hàng đầu để duy trì hoạt động và phát triển của sản xuất. Nó chính là nguồn lực bên trong đóng vai trò quan trọng để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng kĩ thuật trong sản xuất. Không chỉ có vậy, vốn hay còn gọi là Tư Bản giúp cho những đề án kinh doanh, những ý tưởng táo bạo trở thành hiện thực. Nếu vấn đề về vốn không được giải quyết thì không chỉ nền kinh tế mà cả đất nước sẽ lâm vào khủng hoảng. Đặc biệt là nền kinh tế của Việt Nam ta hiện nay, một nền kinh tế trẻ, mới chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN được 10 năm. Vốn là 1 vấn đề hết sức quan trọng, cấp thiết để duy trì nền kinh tế. Để có được nguồn vốn dồi dào, bên cạnh việc thu hút vốn của Tư Bản nước ngoài thì có lẽ việc huy động nội lực, tiền tệ có sẵn trong nhân dân là hướng đi thực sự đúng đắn trong thời điểm này. Để có thể huy động nguồn vốn tiềm tàng đó thì vai trò của các Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước là hết sức quan trọng. Sự tồn tại của các Ngân Hàng sẽ góp phần lưu thông nguồn vốn trong xã hội. Ngoài ra, sự tồn tại của các Ngân Hàng còn góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức cao. Việc sử dụng các dịch vụ Ngân Hàng còn góp phần đưa ra 1 sự minh bạch về tài chính của các cá nhân, tổ chức... Nó góp phần hạn chế các hoạt động rửa tiền phi pháp. Vì vậy, việc tổ chức hoạt động giao dịch của các Ngân Hàng luôn được xem là vấn đề đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trên thế giới hiện nay, hoạt động của các Ngân Hàng như World Bank, City Bank... cùng với các tổ chức tài chính lớn như quỹ tiền tệ quốc tế IMF là hết sức quan trọng. Và ở Việt Nam ta, tuy lịch sử phát triển của ngành Ngân Hàng vẫn còn non trẻ nhưng Đảng và Nhà Nước đã thấy được vai trò quyết định của nó. Chúng ta hiện đang có 4 Ngân Hàng Thương Mại lớn nhất: Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển Việt Nam. Các ngân hàng này đã điều tiết nền kinh tế Việt Nam, điều chỉnh nguồn ngoại tệ cho phù hợp. Ngân hàng với lịch sử tồn tại của mình đã để lại rất nhiều tiện ích nhưng kèm theo nó cũng có không ít khiếm quyết và bất cập. Bởi vậy, tìm hiểu hoạt động của các Ngân hàng là một hoạt động cần thiết để có thể đưa ra các dịch vụ Ngân hàng ngày càng mang lại nhiều tiện ích cho nhân dân.
quan điểm toàn diện với việc tìm hiểu hoạt động của các ngân hàng ở việt nam hiện nay
ChươngI: Quan điểm toàn diện
1.1Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
1.1.1Khái niệm:
Theo quan điểm của các nhà biện chứng duy vật, họ coi thế giới như một chỉnh thể thống nhất, các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt nhau, vừa có mối liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Cơ sở của mối liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới.
1.1.2Các tính chất:
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
-Bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
-Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến chung nhất.
-Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối quan hệ chủ yếu và mối quan hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực của thế giới, mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
1.2Nguyên lí về sự phát triển:
1.2.1Những quan niệm khác nhau về sự phát triển:
*Sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong một sự vật hay giữa các vật làm cho sự vận động và phát triển. Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập nhau: quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng.
-Quan điểm siêu hình: xem xét sự phát triển chỉ tăng lên hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có gì thay đổi về mặt chất của sự vật.
-Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa ra sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy chủ quan, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
1.2.2Tính chất của sự phát triển:
-Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên đã phân tích theo quan đIểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó, sự vật luôn phát triển. Sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng chủ quan của con người.
-Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy ở bất kì sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
-Ngoài tính khách quan và phổ biến, sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng. Song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm thụt lùi.
=>Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng chúng ta cần rút ra quan điểm toàn diện về nhận thức, xem xét các hiện tượng cũng như trong hoạt dộng thực tiễn. Để nhận thức đúng đắn về sự vật chúng ta cần phải:
+Xem xét sự vật, hiện tượng đó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, hiện tượng, giữa các yếu tố, thuộc tính chính của sự vật đó.
+Xem xét sự vật hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
+Sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong không gian và thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian và thời gian đó. Vì vậy, chúng ta phải có quan đIểm lịch sử cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra. Để giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra chúng ta cần phải chú ý đến hoàn cảnh lịch sử làm phát sinh vấn đề đó, phải quan tâm đến bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan.
1.3Vấn đề về sự phát triển Ngân Hàng:
Trong sự phát triển của tất cả mọi vật, chúng đều có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong tất cả mọi lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, hoạt động XH... thì mối liên hệ phổ biến luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Trong sự phát triển hoạt động của Ngân Hàng cũng không phải là ngoại lệ. Sự phát triển của một Ngân Hàng phụ thuộc vào sự phát triển của các khâu: huy động vốn, hoạt động tín dụng và dịch vụ Ngân Hàng. Thật vậy, đây là 3 vấn đề quan trọng nhất, cơ bản nhất quyết định sự phát triển và tồn tại của mỗi Ngân Hàng. Vốn là một vấn đề mà Ngân Hàng nào cũng phải quan tâm. Chỉ khi có một nguồn vốn dồi dào thì nội lực của mỗi Ngân Hàng mới có thể được phát huy. Và khi đó hoạt động tín dụng của mỗi Ngân Hàng mới được tiến hành một cách hiệu quả. Nguồn vốn trong mỗi Ngân Hàng sẽ đẩy mạnh hoạt động tín dụng, vốn càng lớn thì hoạt động cho vay của các Ngân Hàng sẽ càng lớn. Nhưng không chỉ có hoạt động huy động vốn và tín dụng có mối liên hệ với nhau mà dịch vụ của mỗi Ngân Hàng cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Những dịch vụ tiện ích, nhanh chóng luôn là sự lựa chọn hàng đầu của khách hàng cả người gửi và người vay. Thủ tục nhanh chóng, sự phục vụ tận tình, chu đáo luôn là một yếu tố cần thiết làm nên bộ mặt của Ngân Hàng Thương Mại.
ChươngII
Theo thời gian, cùng sự phát triển của các Ngân Hàng trên thế giới thì các Ngân Hàng của Việt Nam, nổi bật là 4 Ngân Hàng: Incombank, Vietcombank, Agribank,... cũng đã phát triển nhanh chóng. Hoạt động của các Ngân Hàng này thì trên rất nhiều lĩnh vực...
2.1Giao dịch thương mại của Ngân Hàng Thương Mại trong lĩnh vực huy động vốn:
2.1.1Giao dịch nhận tiền gửi:
Trong lịch sử phát triển của Ngân Hàng, nhận tiền gửi được xem là một loại hình giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất. Giao dịch nhận tiền gửi từ chỗ chỉ là giao dịch dân sự thuần túy đã trở thành những giao dịch mang tính chất thương mại rõ rệt. Thế ta hiểu giao dịch nhận tiền gửi như thế nào? Dưới góc độ kinh tế, hoạt động nhận tiền gửi được nhìn nhận như một nghiệp vụ kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại và nội dung chủ yếu là tiếp nhận các khoản tiền gửi của khách hàng thông qua việc mở các tài khoản cho khách hàng như: tài khoản tiền gửi định kì (tiền gửi có kì hạn), tài khoản tiền gửi hoạt kì (tiền gửi không kì hạn) và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Việc các Ngân Hàng Thương Mại mở các tài khoản tiền gửi này cho khách hàng không đơn thuần là một hoạt động giữ hộ tài sản hay quản lí tài sản cho khách hàng để nhận tiền thù lao mà quan trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ đi vay của Ngân Hàng Thương Mại từ nền kinh tế. Dưới góc độ pháp lí, giao dịch nhận tiền gửi của Ngân Hàng Thương Mại được hiểu là cam kết song phương của Ngân Hàng Thương Mại và khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng gửi tiền. Ban đầu, Ngân Hàng chỉ giữ hộ khách hàng nhưng về sau do yêu cầu sử dụng mà Ngân Hàng sử dụng chính số tiền gửi này để cho vay hay đầu tư vào mục đích khác nhằm mục đích sinh lợi, với điều kiện hoàn trả cho người gửi tiền toàn bộ số vốn đã sử dụng, kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tùy theo thời hạn.
Ngày nay ở Việt Nam ta, hoạt động về giao dịch nhận tiền gửi là trong những hoạt động cơ bản của các Ngân Hàng. Trong các Ngân Hàng, với một hệ thống chi nhánh và phòng giao dịch đã tỏa khắp cả nước để phục vụ khách hàng. Với các nghiệp vụ Marketing của mình như: Quảng cáo, mở các phiếu dự thưởng với các giải thưởng có giá trị, các Ngân Hàng đã thu hút các nguồn vốn đầu tư dư thừa trong nhân dân. Điển hình là 2 Ngân Hàng: Viêtcombank, Agribank. Ngân hàng Agribank với phương châm phục vụ người dân là chủ yếu đã mở mở một hệ thống rộng khắp với hơn 2000 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc. Từ vùng Tây Bắc núi cao hẻo lánh đến những đô thị sầm uất như Sài Gòn, Hà Nội... Agribank luôn có mặt. Còn Ngân Hàng Vietcombank, đây là Ngân hàng quốc doanh có uy tín hàng đầu Việt Nam. Phương châm của Ngân Hàng là là chất lượng. Đối tượng gửi tiền của Ngân Hàng Vietcombank là các công ty lớn của Nhà Nước cũng như tư nhân. Ngân Hàng có số vốn lớn nhất trong 4 Ngân Hàng Thương Mại lên tới 8 tỉ USD.
Tuy nhiên hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế nước ta hơn 8%/năm. Bởi vậy, vốn là 1 vấn đề hết sức bức thiết. Dẫn đến việc huy động vốn là quan trọng hơn bao giờ hết. Thế nên nước ta hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt của các Ngân Hàng nhằm thu hút vốn trong nhân dân. Sự cạnh tranh là rất cần thiết nhưng đôi khi cạnh tranh cũng gây ra những hậu quả khó có thể giải quyết được. Đặc biệt là sự tăng lãi suất hàng loạt của các Ngân Hàng, mà chủ yếu là các Ngân Hàng tư nhân, Ngân Hàng liên doanh. Điều này có thể gây ra 1 sự hỗn loạn trong thị trường tiền tệ, gây nhiều hậu quả, thậm chí gây ra sự phá sản hàng loạt của các Ngân Hàng.
Để giải quyết được vấn đề này, Đảng và chính phủ cần có các cơ chế hợp lí để đIều chỉnh tình hình lãi suất cho phù hợp. Nhà Nước phải đưa ra một giới hạn lãi suất thích hợp cho tất cả các Ngân Hàng hoạt động trong nước. Đặc biệt theo ý kiến của bản thân em, các Ngân Hàng nên kí thỏa thuận chung về lãi suất. Các Ngân Hàng chỉ nên cạnh tranh nhau về chất lượng phục vụ chứ không sử dụng tăng lãi suất tiền gửi hay giảm lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Nếu sử dụng phương pháp này để thỏa mãn mục đích của mình, thiệt hại phải gánh chịu lại chính là các Ngân Hàng.
2.1.2Giao dịch và phát triển giấy tờ có giá;
Trong lịch sử phát triển Ngân Hàng, việc phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn được xem là loại hình giao dịch ra đời muộn hơn so với giao dịch nhận tiền gửi của Ngân Hàng Thương Mại. Loại giấy tờ có giá đầu tiên do Ngân Hàng Thương Mại phát hành ra công chúng để huy động vốn và được công chúng chấp nhận như một loại tiền, đó là chứng thư tiền gửi. Về sau, do nhu cầu huy động vốn ngày càng gia tăng, cùng với sự chấp nhận rộng rãi của công chúng đối với các loại giấy tờ có giá này, các Ngân Hàng Thương Mại đã bắt đâù phát hành thêm một số loại giấy tờ có giá khác với hình thức và nội dung hấp dẫn hơn như tín phiếu Ngân Hàng và trái phiếu Ngân Hàng. Nói chung, tất cả các loại giấy tờ có giá này cho dù có thể có những tên gọi khác nhau nhưng đều có bản chất giống nhau: đó là phiếu hay chứng khoán ghi nợ, trong đó phản ánh việc Ngân Hàng mắc nợ người sở hữu tờ phiếu một số tiền nhất định và phải trả cho chủ sở hữu tờ phiếu số tiền đó khi đến thời hạn ghi phiếu nợ.
Về phương diện kinh tế, giao dịch phát hành giấy tờ có giá được hiểu là nghiệp vụ huy động vốn của Ngân Hàng Thương Mại. Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua Ngân Hàng Thương Mại phát hành ra công chúng những loại giấy tờ có giá dưới dạng chứng khoán nợ để vay tiền của công chúng, với cam kết hoàn trả lại số tiền đó kèm theo một khoản lãi vào ngày đáo hạn. Về phương diện pháp lí, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của Ngân Hàng Thương Mại được hiểu là hành vi pháp lí theo đó Ngân Hàng Thương Mại cam kết vay tiền của khách hàng trong 1 thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn trả cho khách hàng số tiền ghi trên chứng khoán thu nhận nợ do Ngân Hàng phát hành.
Giao dịch phát hành giấy tờ có giá của Ngân Hàng Thương Mại có đặc trưng cơ bản sau đây:
-Về bản chất pháp lí, việc phát hành giấy tờ có giá của Ngân Hàng Thương Mại ra công chúng thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi bán giấy tờ có giá cho khách hàng.
-Đối tượng của giao dịch: mặc dù tên gọi của giao dịch là phát hành giấy tờ có giá nhưng đối tượng của giao dịch không phải là giấy tờ có giá do Ngân Hàng phát hành mà chính là những khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền sở hữu cho Ngân Hàng với điều kiện Ngân Hàng phải hoàn trả sau một thời hạn nhất định, kèm theo khoản tiền lãi đã thỏa thuận.
-Về tư cách pháp lí khi phát hành giấy tờ có giá để vay nợ của khách hàng, Ngân Hàng có tư cách là người vay hay người mắc nợ, còn khách hàng mua giấy tờ có giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của Ngân Hàng.
Có thể nói, hoạt động giao dịch và phát hành giấy tờ có giá là một trong những hoạt động giao dịch rất quan trọng. Nó giúp huy động vốn cho Ngân Hàng. Tuy nhiên, hoạt động này đôi khi cũng có những rủi do nhất định. Các Ngân Hàng có thể lâm vào hoàn cảnh khó khăn, có thể dẫn đến phá sản khi nợ chưa thu được hết mà ngày trái phiếu đáo hạn đã đến. Bởi vậy, để hoạt động này diễn ra với hiệu quả lớn nhất mà chúng ta có thể làm được, chúng ta phải xây dựng hệ thống cho vay để có thể thu hồi vốn nhanh chóng.
2.1.3Giao dịch vay vốn của Ngân Hàng Thương Mại từ Ngân Hàng trung ương:
Trong lịch sử Ngân Hàng, ngoài hình thức nhận tiền gửi và phát hành các giấy tờ có giá thì việc huy động vốn từ Ngân Hàng trung ương cũng là hình thức được các Ngân Hàng Thương Mại ưa sử dụng. Bởi lẽ, lợi ích của phương thức này là nó cho phép Ngân Hàng Thương Mại có khả năng huy động vốn nhanh chóng, kịp thời để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của mình.
Tại Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia cũng như hoạt động kinh doanh Ngân Hàng trong điều kiện nền kinh tế thị trường đều quy định tổ chức tín dụng là Ngân Hàng được vay vốn ngắn hạn của Ngân Hàng Nhà Nước theo chế độ tái cấp vốn. Xét về phương diện kinh tế, giao dịch vay vốn của Ngân Hàng trung ương là 1 trong những nghiệp vụ quản lí tài sản nợ của Ngân Hàng Thương Mại. Nghiệp vụ này không chỉ phản ánh khoản nợ mà nó phải trả cho chủ nợ (Ngân hàng trung ương) mà còn thể hiện vai trò trung gian của Ngân Hàng Thương Mại giữa Ngân Hàng trung ương với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Còn theo phương diện pháp lí, giao dịch vay vốn Ngân Hàng trung ương được quan niệm là hành vi pháp lí do Ngân Hàng Thương Mại thực hiện bằng cách kí kết các hợp đồng tái cấp vốn với Ngân Hàng trung ương để vay vốn ngắn hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu kinh doanh của mình.
Giao dịch vay vốn Ngân Hàng Thương Mại từ Ngân Hàng trung ương có những đặc trưng sau:
-Về hạn vay vốn của Ngân Hàng trung ương, do mục đích vay vốn của Ngân Hàng trung ương đối với Ngân Hàng Thương Mại là để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và thực hiện chức năng giám sát hoạt động Ngân Hàng trong nền kinh tế nên về nguyên tắc, Ngân Hàng Thương Mại chỉ có thể vay tiền của Ngân Hàng trung ương trong thời hạn ngắn và khả năng vay dễ dàng hay khó khăn luôn phụ thuộc vào yêu cầu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân Hàng trung ương trong từng thời kì.
-Về hình thức vay vốn của Ngân Hàng trung ương. Ngân Hàng Nhà Nước được tái cấp vốn cho Ngân Hàng Thương Mại theo các hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Mục đích tham gia vào giao dịch. Nếu Ngân Hàng trung ương xác lập giao dịch này với Ngân Hàng Thương Mại là để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và hoàn toàn không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận thì trái lại, Ngân Hàng Thương Mại lại tham gia vào giao dịch này nhằm mục tiêu chính là vay tiền để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh tiền tệ của mình với mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận tối đa.
2.1.4Giao dịch vay vốn của Ngân Hàng Thương Mại từ tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân Hàng:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, đôi khi một Ngân Hàng Thương Mại có thể lâm vào tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời mà việc vay vốn của công chúng bằng hình thức tiền gửi, phát hành trái phiếu hay thậm chí vay vốn của Ngân Hàng trung ương không thể nào giải quyết được. Trong những trường hợp như vậy, giải pháp thích hợp nhất mà Ngân Hàng Thương Mại có thể lựa chọn là đề nghị tổ chức tín dụng khác cung cấp cho mình một khoản tín dụng thông qua hình thức kí hợp đồng tín dụng hay hợp đồng chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá với tổ chức tín dụng đó.
2.2Giao dịch thương mại của Ngân Hàng Thương Mại trong lĩnh vực cấp tín dụng:
2.2.1Giao dịch cho vay của Ngân Hàng Thương Mại:
Trong nền kinh tế thị trường, cho vay là loại hình giao dịch cấp tín dụng mang tính truyền thống và phổ biến nhất của Ngân Hàng Thượng Mại. Xét từ góc độ kinh tế, cho vay được quan niệm là một nghiệp vụ quản lí tài sản của Ngân Hàng Thương Mại, theo đó phản ánh khoản tiền mà Ngân Hàng có thể đòi từ phía khách hàng, với tư cách là chủ nợ. Còn ở góc độ pháp lí, giao dịch cho vay tiền và giao dịch cho vay vốn của Ngân Hàng Thương Mại nói riêng có thể quan niệm là một hợp đồng qua đó người cho vay cam kết giao cho người vay một khoản tiền và người vay cam kết sẽ hoàn trả cho người vay khoản tiền tương ứng với số tiền đã vay kèm theo khoản lãi do các bên thỏa thuận.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động cho vay:
-Giao dịch cho vay của Ngân Hàng luôn có mục đích và tạo ra hệ quả là tạo ra một hợp đồng cho vay với khách hàng.
-Mục đích cho vay của Ngân Hàng là ứng vốn cho người vay sử dụng trong 1 thời hạn nhất định để được nhận tiền lãi, thông qua hành vi chuyển giao quyền sở hữu vốn cho người vay.
-Hệ quả pháp lí của việc cho vay là Ngân Hàng phải chuyển giao quyền sở hữu tài sản là vốn vay cho bên vay bằng thủ tục giải ngân theo phương thức đã thỏa thuận trong hoạt động tín dụng.
Giao dịch cho vay của Ngân Hàng Thương Mại là một trong những hoạt động quan trọng. Nó là nguồn thu nhập chính của mỗi Ngân Hàng giúp cho Ngân Hàng có