TCCSĐT - Sự biến động giá vàng trong thời gian dài vừa qua cho thấy về cơ bản không phải nguyên nhân từ
nhu cầu tiêu dùng thực của vàng để phục vụ cho một số ngành công nghiệp chế tạo hay làm đồ trang sức,
trang trí mà vàng chủ yếu được mua để tích trữ và đầu cơ hưởng chênh lệch giá.
5 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quản lý giá vàng - Cần cơ chế minh bạch và phương pháp khoa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản lý giá vàng - cần cơ chế minh bạch và phương pháp khoa học
10:49' 19/9/2011
TCCSĐT - Sự biến động giá vàng trong thời gian dài vừa qua cho thấy về cơ bản không phải nguyên nhân từ
nhu cầu tiêu dùng thực của vàng để phục vụ cho một số ngành công nghiệp chế tạo hay làm đồ trang sức,
trang trí mà vàng chủ yếu được mua để tích trữ và đầu cơ hưởng chênh lệch giá.
Thị trường vàng và những bất ổn thời gian qua
Chỉ trong gần hai tuần cuối tháng 8, đầu tháng 9 (bắt đầu từ sáng ngày 23-8), giá vàng đang từ
mốc kỷ lục 49,6 triệu đồng/lượng đã giảm xuống 45,3 triệu đồng/lượng (bán ra) vào ngày 25-8,
để rồi ngay sau đó, tiếp tục tăng lên 48,070 (bán ra) vào ngày 6-9. Tiếp đó, ngày 13-9 lại giảm
mạnh ở mức 300.000 - 500.000 đồng/lượng (mua vào - bán ra). Ngày 16-9, tiếp tục giảm mạnh,
niêm yết ở mức 46,530 triệu đồng/lượng. Đây được xem là những cơn biến động lớn của giá
vàng và sự bùng nổ được giới chuyên gia xác nhận là vào tháng 8. Đây cũng là thời điểm bộc lộ
rõ nhất, mạnh nhất những bất ổn của thị trường vàng. Tuy nhiên, không thể khẳng định thời
điểm bộc lộ rõ nhất, mạnh nhất những bất ổn của thị trường vàng đã qua.
Như vậy, những biến động của giá vàng đã vượt ra ngoài dự báo của giới chuyên gia, bởi ngay từ
cuối năm ngoái, khi giá vàng cho thấy những biến động tiềm ẩn sẽ xảy ra trong năm 2011 thì
nhiều chuyên gia đã đưa ra dự báo nhưng thực tế đến nay đã cho thấy các dự báo đều không
lường tới mức giá vàng tăng nhiều tới vậy, và trong thời gian ngắn như vậy. Đó là chưa kể, có
chuyên gia còn nhận định thị trường vàng năm 2011 sẽ ít rủi ro hơn năm 2010.
Nhìn lại cách đây 3 tháng, giá vàng miếng trên thị trường chủ yếu được bán với giá 37,5 triệu
đồng/lượng, như vậy, chỉ sau một quý, giá vàng đã tăng thêm hơn 10 triệu đồng/lượng.
Các chuyên gia thế giới cho rằng: thị trường vàng biến động mạnh, liên tục lập các mốc cao lịch
sử nhưng khác với thị trường bất động sản, khả năng bong bóng là không cao. Các chuyên gia
trong nước cũng có phần đồng tình với nhận định này, nhưng cũng khẳng định thị trường vàng
trong nước thời gian qua là có đầu cơ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cũng
đã từng chính thức phát ngôn tại cuộc Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8 rằng: khi giá vàng
trong nước cao hơn giá vàng thế giới 400.000đồng/ lượng thì chắc chắn đã có hiện tượng đầu cơ
làm giá. Trong khi đó, chỉ tính từ đầu tháng 8 tới nay, giá vàng luôn cao hơn giá thế giới (quy đổi
theo tỷ giá đô la liên ngân hàng), có lúc cao hơn 400.000 đồng/chỉ.
Mặc dù là nước nhập khẩu vàng 100%, nhưng giá vàng trong nước lại thường tăng cao trước giá
vàng thế giới. Rõ ràng, những yếu tố tác động đến giá vàng trước hết có nguyên nhân từ trong
nước. Đi sâu phân tích, nhiều chuyên gia cho rằng có nguyên nhân là do bị bế quan tỏa cảng.
Thông tin từ Vụ Quản lý Ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước thì Ngân hàng Nhà nước chưa sử dụng
vàng dự trữ để can thiệp vào thị trường. Trong suốt thời gian từ năm 1999 đến nay, lượng vàng
dự trữ của Việt Nam được bảo toàn giá trị trong kho nhằm hỗ trợ cán cân thanh toán kịp thời khi
cần thiết. Ngân hàng Nhà nước không có bất cứ một nghiệp vụ đầu tư vàng nào trên thị trường
quốc tế. Hoạt động can thiệp bình ổn giá vàng chỉ mới được thực hiện dưới hai hình thức: bán
ngoại tệ cho doanh nghiệp nhập khẩu vàng và cấp quo-ta cho từng doanh nghiệp. Thực tế, lâu
nay phương thức được Ngân hàng Nhà nước sử dụng để giảm áp lực tăng giá, ổn định thị trường
vàng là cấp quo-ta nhập khẩu. Mỗi khi giá vàng tăng cao, dân đổ xô đi mua vàng, các cửa hàng
bắt đầu bán ra nhỏ giọt, phương thức bán vàng bằng hóa đơn (người mua nộp tiền trước, nhận
hóa đơn, vàng được chuyển sau) đã trở thành khá quen thuộc. Những lúc ấy, Ngân hàng Nhà
nước sẽ cấp quo-ta nhập khẩu. Năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần cấp quo-ta nhập khẩu
để ngăn chặn các cơn sốt giá, trong đó 2 đợt cấp cuối năm chỉ cách nhau chưa đầy 4 tuần. Đợt
cấp quo-ta nhập khẩu 5 tấn vàng hôm 9-8-2011 là lần cấp quo-ta thứ 2 trong năm 2011. Theo
Thống đốc Nguyễn Văn Bình, từ đầu tháng 8 đến nay đã cấp giấy phép nhập 15 tấn vàng, nhưng
thực tế mới nhập 7 tấn. Tuy nhiên, thị trường vàng vẫn không ổn định, giá vàng vẫn đứng ở mức
cao, thậm chí cao hơn nhiều so với giá thế giới và luôn tiềm ẩn những bất ổn. Thực tế này cho
thấy “phương thuốc” cấp quo-ta xem ra không còn hữu hiệu và đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước
phải tính toán đến một “liều thuốc” khác hiệu quả hơn cho thị trường vàng.
Những nguyên nhân từ phương pháp quản lý
Thiếu hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý
Theo các chuyên gia, phương pháp quản lý vàng hiện nay của Ngân hàng Nhà nước chưa khoa
học, chưa chặt chẽ. Mặc dù, từ cuối năm 2009, Ngân hàng Nhà nước cũng bỏ chế độ cấp phép
xuất khẩu vàng tự động, Bộ Tài chính có Thông tư số 184 quy định từ ngày 1-1-2010 áp thuế
xuất khẩu 10% đối với các loại vàng nguyên liệu, vàng trang sức có hàm lượng cao, thay cho
mức cũ là 0%, trước tình trạng lách luật xuất khẩu vàng dưới dạng nữ trang để hưởng thuế 0%.
Nhưng đã gần 2 năm trôi qua kể từ khi giá vàng liên tục biến động tăng cao nhưng Ngân hàng
Nhà nước vẫn chưa ban hành cơ chế can thiệp thị trường vàng trong nước, chưa quy định một số
điều kiện khung tối thiểu đối với hoạt động can thiệp, như: giá vàng trong nước chênh bao nhiêu
% so với giá thế giới thì sẽ được can thiệp; đồng thời cũng chưa đề ra được phương thức, phạm
vi can thiệp, chưa xác định rõ đơn vị nào đứng ra can thiệp?
Chủ trương quản lý rủi ro về giá đối với mặt hàng vàng xuất và nhập khẩu có từ năm 2010. Theo
đó, Cục trưởng Cục Hải quan các địa phương được quyền áp dụng quy định này căn cứ vào tình
hình thực tế của địa phương. Tuy nhiên, từ đó đến nay, chưa có đơn vị nào xây dựng mức giá để
tính thuế đối với vàng, kể cả xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí
Minh là đơn vị đầu tiên đưa ra quy chế quản lý rủi ro đối với hoạt động xuất khẩu vàng, bởi giai
đoạn tháng 6 và tháng 7 là giai đoạn lượng vàng xuất khẩu tăng đột biến. Thống kê cho thấy,
vàng và trang sức xuất đi từ Thành phố Hồ Chí Minh chiếm trên 70% lượng xuất khẩu của cả
nước. Theo đó, từ tháng 9, các đơn vị làm thủ tục xuất khẩu vàng, kim loại quý phải thực hiện
việc khai báo giá và tự chịu trách nhiệm đối với thông tin khai báo. Trên cơ sở giá này, hải quan
sẽ tính toán về xác định mức giá ấy có phù hợp với thực tế hay không để áp thuế.
Quản lý chưa gắn với thị trường
Trong khi phạm vi kinh doanh vàng ở Việt Nam hiện nay khá rộng thì Ngân hàng Nhà nước chỉ
quản lý một số hoạt động về vàng với tư cách là tiền tệ như xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu,
sản xuất vàng miếng. Còn các hoạt động kinh doanh mua - bán vàng trang sức mỹ nghệ, vàng
miếng các cơ quan quản lý lại chưa kiểm soát được. Điều này đồng nghĩa với việc cơ quan quản
lý nhà nước không nắm được số lượng vàng đang trôi nổi ngoài thị trường. Trong khi đây chính
là cơ hội để các nhà đầu cơ lợi dụng, tìm cơ hội đẩy giá vàng trong nước lên. Giá vàng thế giới
tăng chính là một cơ hội, dẫu rằng sự tác động thực tế của giá thế giới đối với giá trong nước là
không lớn.
Ông Nguyễn Công Danh - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Vàng châu Á cho rằng: nhiều nhà
kinh doanh vàng lớn (SJC hiện nay chiếm đến 60 - 70% thị phần, Phú Nhuận, Agribank) đều có
đủ khả năng để làm giá.
Vào thời điểm giá vàng trong nước tăng liên tục trong một ngày, trong khi giá vàng thế giới chỉ
lên một hoặc hai lần, ông Cao Sỹ Kiêm - nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã khẳng
định: “là có sự thao túng của các doanh nghiệp kinh doanh”. Lý giải của ông rất đơn giản là: vì
sự tăng giá đi ngược giá thế giới hoặc có biên độ và cấp độ tăng vọt. Ông Vũ Minh Châu - Tổng
giám đốc Công ty Vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu thì cho rằng giá vàng biến động mạnh là
do mỗi khi giá vàng nhích tăng, một số tập đoàn tài chính và doanh nghiệp đã tung tiền ra thu
gom khiến vàng vật chất càng trở nên khan hiếm, đến khi giá vàng giảm, họ lại vội vã xả hàng
nhằm chốt lời, khiến các doanh nghiệp cũng phải đua bán theo.
Như vậy, rõ ràng là yếu tố đầu cơ, làm giá để trục lợi đã được cả nhà quản lý và chuyên gia
khẳng định. Đã đến lúc cơ quan chức năng cần “bắt tận tay” để làm gương, có như vậy mới giúp
cho thị trường vàng dần trở nên minh bạch.
Đó là chưa kể đến các doanh nghiệp vàng trong nước thường chờ khi giá vàng thế giới cao để
xuất khẩu vàng kiếm lợi bất kể hậu quả là tạo ra những cơn sốt thiếu vàng trong nước. Nhìn lại
năm 2010, các doanh nghiệp vàng trong nước đua nhau xuất khẩu ngay khi giá thế giới vừa
nhích lên. Tháng 5-2010, xuất khẩu vàng của Việt Nam tăng 13,8% so với tháng 4 và đến tháng
8 tăng vọt lên 45,5% so với kim ngạch xuất khẩu trong tháng 7. Chỉ trong 9 tháng đầu năm 2010,
kim ngạch xuất khẩu đá quý, kim loại quý đạt 2,3 tỉ USD, trong đó chủ yếu là vàng. Năm nay
cũng vậy, hiện tượng ồ ạt xuất vàng đã được nhiều chuyên gia cho là một trong những nguyên
nhân tạo nên cơn sốt vàng.
Quản lý giá vàng - cần cơ chế minh bạch và phương pháp khoa học
Cốt lõi của vấn đề quản lý thị trường vàng trong thời gian tới chính là tổ chức lại và quản lý thị
trường vàng một cách có hiệu quả sao cho giá cả ổn định, liên thông hợp lý với giá vàng thế giới,
không để mất cân đối quan hệ cung - cầu vàng trên thị trường trong nước, không để giới đầu cơ
lợi dụng tình hình.
Nhà nước cần huy động số vàng trong dân để phục vụ cho lưu thông tiền tệ, luân chuyển nguồn
vốn cho phát triển kinh tế. Để làm được điều này, phải có một cơ chế minh bạch, có cách quản lý
khéo léo, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu của thị trường, bảo đảm có sự kiểm soát của Nhà nước
mới tạo được lòng tin của người dân, qua đó mới có thể huy động vàng trong dân thông qua hệ
thống ngân hàng.
Như vậy, yêu cầu bức bách hiện nay là phải tổ chức lại, đổi mới triệt để phương thức quản lý thị
trường vàng nhằm mục tiêu cao nhất là bình ổn thị trường này, bảo đảm thỏa mãn các nhu cầu
hợp lý của người dân, của doanh nghiệp.
Ngân hàng Nhà nước có thể chuyển cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng sang trực tiếp hoặc ủy thác
cho các công ty nhập khẩu vàng để hoán đổi một phần dự trữ ngoại tệ sang dự trữ vàng. Động
thái này không chỉ làm tăng nguồn cung trong nước mà còn hạn chế rủi ro giá trị thực của dự trữ
ngoại hối khi các ngoại tệ bị mất giá do lạm phát ở nước ngoài.
Giải pháp ổn định thị trường vàng
Giải pháp trước mắt
- Kịp thời cho phép nhập khẩu vàng với khối lượng cần thiết để tránh đầu cơ, làm giá. Ngân hàng
Nhà nước cần có cơ chế để các tổ chức tín dụng có thể chủ động sử dụng lượng vàng hiện có
trong nước để can thiệp, bảo đảm bình ổn thị trường vàng.
- Hoàn thiện hành lang pháp lý quản lý thị trường đang rất bất ổn. Dự kiến, trong tháng 9-2011,
Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ ban hành nghị định về tổ chức lại thị trường vàng, thay thế
Nghị định 174 nhằm đáp ứng các mục tiêu do Nghị quyết số 11 đề ra.
- Tạo cơ chế cho các tổ chức tín dụng có thể chủ động sử dụng lượng vàng hiện có trong nước để
can thiệp, bảo đảm bình ổn thị trường vàng. Theo tính toán, lượng vàng Ngân hàng Nhà nước có
thể huy động trong nhân dân là phong phú, tối thiểu cũng huy động được tương đương số vàng
mà người dân đã gửi vào hệ thống ngân hàng trước đây, khoảng 130 tấn, tương đương 10 tỉ
USD. Điều này sẽ giúp bảo đảm tối đa quyền lợi người dân, bình ổn thị trường, đồng thời, tạo
nguồn lực quốc gia.
Ngân hàng Nhà nước tham gia trực tiếp quản lý về quá trình sản xuất và lưu thông vàng miếng,
xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. Đây là các yếu tố bảo đảm cho NHNN can thiệp hiệu quả trên
thị trường vàng, chống đầu cơ lũng đoạn giá vàng.
Giải pháp lâu dài
Giải pháp lâu dài được đưa ra là nghiên cứu thành lập và cho hoạt động 1-2 sở giao dịch vàng,
trên cơ sở xây dựng, ban hành đầy đủ cơ chế quản lý chặt chẽ hoạt động của tổ chức này, đồng
thời phân tích rõ những tác động về kinh tế - xã hội của nó ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
- Dần tự do hóa thị trường vàng để giá tự điều chỉnh theo quy luật cung - cầu ở phạm vi quốc tế
nhằm giảm thiểu các áp lực về giá, đồng thời hạn chế những can thiệp tốn kém chi phí từ Chính
phủ. Tuy nhiên, giải pháp này phải được tiến hành có lộ trình và song song phải tăng cường năng
lực của các cơ quan quản lý.
- Nghiên cứu thiết lập thị trường giao dịch vàng tập trung hoặc phi tập trung (OTC). Giao dịch
tập trung có nhiều lợi thế hơn trong điều kiện nền tảng thị trường sơ khai ở Việt Nam, dễ quản lý
và bảo đảm tính minh bạch của thị trường.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, nên lựa chọn chính sách thiết lập thị trường giao dịch vàng
tập trung, đồng thời chuẩn bị cho việc tự do hóa thị trường vàng nội địa./.
Giá vàng đột biến tăng cao trong 3 tháng trở lại đây
Hồng Hoa
In bài này Gửi bài này