Trong nền kinh tế hiện đại, sự phát triển của các ngân hàng thương mại đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc cung cấp và điều chuyển vốn. Ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực vô cùng nhạy cảm là tiền tệ, các vấn đề xung quanh lĩnh vực này luôn được xem xét một cách hết sức thận trọng vì có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và của cả nên kinh tế nói chung
22 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý thanh khoản trong ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, sự phát triển của các ngân hàng thương mại đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc cung cấp và điều chuyển vốn. Ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực vô cùng nhạy cảm là tiền tệ, các vấn đề xung quanh lĩnh vực này luôn được xem xét một cách hết sức thận trọng vì có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và của cả nên kinh tế nói chung. Hoạt động quản lý thanh khoản đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Tính thanh khoản hay tính lỏng là khả năng chuyển hoá thành tiền của tài sản. Ngân hàng có đáp ứng được thanh khoản thì mới có thể đầu tư có hiệu quả nhằm tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro và tránh được nguy cơ phá sản.
Trước bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, cạnh tranh ngày càng gay gắt không những giữa các ngân hàng trong nước mà còn có cả nước ngoài thì việc quản lý nguồn vốn và tài sản nhằm đáp ứng thanh khoản cao lại càng cần thiết và trở thành một đề tài nóng bỏng. Việc đảm bảo tính thanh khoản không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng đó mà còn ảnh hưởng đến tính an toàn của cả hệ thống. Đặc biệt trong thời gian qua, cuộc khủng hoảng thanh khoản khiến một loạt các ngân hàng lớn hàng đầu nước Mỹ bị phá sản tạo ra cơn bão tài chính khắp toàn cầu, nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái càng làm cho công tác quản lý thanh khoản của các ngân hàng cần được chú trọng hơn. Rủi ro tín dụng hay các rủi ro khác đều xảy ra thường xuyên và song hành cùng với hoạt động của ngân hàng, nhưng trường hợp dẫn tới phá sản. Trong khi đó rủi ro thanh khoản luôn tiềm ẩn mối đe doạ cho hoạt động của ngân hàng và có thể gây hiệu ứng dẫn đến phá sản cao. Trên cơ sở đó, em xin chọn đề tài lý thuyết tài chính - tiền tệ : “Quản lý thanh khoản trong ngân hàng thương mại”.
Đề tài này sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và dựa trên một số nguồn tư liệu có sẵn. Kết cấu gồm 3 phần:
Phần I Giới thiệu chung về NHTM
Phần II Thanh khoản và rủi ro thanh khoản
Phần III Quản lý thanh khoản tại ngân hàng thương mại
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Thị Thu Hà đã tận tình giúp đỡ em để hoàn thành được đề án này. Do nhiều hạn chế về mặt kiến thức cũng như thời gian nên đề án còn nhiều sai sót rất mong được sự chỉ bảo của thầy cô.
PHẦN 1GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Có rất nhiều cách định nghĩa về ngân hàng thương mại (NHTM). Hệ thống các ngân hàng thương mại là bộ phận chiếm vị trí quan trọng nhất và lớn nhất trong các ngân hàng trung gian. Ngân hàng trung gian là một đơn vị kinh doanh có giấy phép của chính quyền, có chức năng quan trọng là trung gian trong việc dẫn vốn cho nền kinh tế. Hoạt động chính là kinh doanh trên đồng tiền bằng việc mở các khoản tiền gửi trả lãi để thu hút vốn nhàn rỗi, rồi dùng chính những khoản đó để cho vay lại vào nền kinh tế. Do vậy người ta có thể định nghĩa “Ngân hàng thương mại là một ngân hàng trung gian mà tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp chiếm đa số trong tài sản có của nó.”
Các ngân hàng thưưong mại cũng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò của chúng trong nền kinh tế “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Các ngân hàng thương mại có 3 chức năng cơ bản là trung gian tài chính với những hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, tạo phương tiện thanh toán và làm trung gian thanh toán. NHTM hoạt động bằng các nguồn vốn chủ yếu sau :
• Tiền gửi của công chúng (có kỳ hạn, không có kỳ hạn và tiết kiệm)
• Vốn tự có của ngân hàng do các cổ đông đóng góp
• Vốn vay của các tổ chức kinh doanh, NHTG, NHTW, các tổ chức quốc tế …
• Vốn vay của công chúng bằng cách phát hành giấy nợ
• Vốn hoặc tài sản do các đơn vị đem lại cầm cố
Đối tượng cho vay của NHTM chủ yếu là thương mại, sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, đầu tư xây dựng xí nghiệp, khu công nghiệp.
Ngân hàng thương mại hoạt động trên nhiều lĩnh vực dịch vụ. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng bao gồm :
Nhận tiền gửi : Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi.
Hoạt động cho vay :
- Cho vay thương mại : các ngân hàng thực hiện chiết khấu thương phiếu (thực chất là cho vay đối với người bán), cho vay trực tiếp đối với các khách hàng là người mua giúp họ có vốn để tự mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng : ngân hàng cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của họ.
Mua bán ngoại tệ : Mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
Tài trợ cho dự án : Các ngân hàng càng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung và dài hạn: tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển công nghệ cao…
Bảo quản tài sản hộ : Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các tài sản tài chính, các giấy tờ cầm cố hoặc các giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn bí mật thuận tiện.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán : Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh thanh toán của khách hàng như uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
Quản lý ngân quỹ : Ngân hàng quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ : Ngày nay, các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với các điều kiện là họ phải cam kết thực hiện ở một mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho chính phủ ví dụ như mua trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng gửi mà ngân hàng huy động được.
Bảo lãnh : Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị , phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn : Ngân hàng mua các thiết bị và máy móc cần thiết và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàn phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn : Uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… trong đó ngân hàng thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ cho các cá nhân và doanh nghiệp.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm : Ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm.
Cung cấp các dịch vụ đại lý : Đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
PHẦN 2THANH KHOẢN VÀ RỦI RO THANH KHOẢN
I. KHÁI NIỆM
Để đi sâu tìm hiểu về hoạt động quản lý thanh khoản tại ngân hàng chúng ta cần biết một số khái niệm cơ bản sau :
1.1. Tính thanh khoản của tài sản
Là khả năng chuyển tài sản thành tiền, được đo bằng thời gian và chi phí. Chi phí ở đây không phải là chi phí để bán tài sản thành tiền mà là tổn thất (giảm giá) của tài sản. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của tài sản càng thấp và ngược lại. Tính thanh khoản của tài sản phản ánh rủi ro (tổn thất) khi chuyển tài sản thành tiền trong khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên một số trường hợp, một tài sản muốn bán nhanh (thời gian chuyên tiền ngắn) thi chi phí (tổn thất) lại lớn. Điều này cho thấy tính thanh khoản của một tài sản phụ thuộc vào nhiều nhân tố và có thể thay đổi giữa các vùng, các nước. Vì vậy những tài sản nào đáp ứng cả hai yêu cầu : thời gian ngắn và chi phí thấp mới được xếp vào tài sản thanh khoản.
Ngân hàng nắm giữ danh mục tài sản có tính thanh khoản khác nhau. Kết cấu tài sản với tính thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của nhóm tài sản hoặc tổng tài sản.
1.2. Tính thanh khoản của nguồn
Ngân hàng huy động vốn để tạo lập nên các tài sản, trong đó có các tài sản có tính thanh khoản cao. Như vậy khả năng huy động tạo khả năng thanh toán chongân hàng, phản ánh được tính thanh khoản của nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn được đo bằng thời gian và chi phí để mở rộng nguồn khi cần thiết. Thời gian và chi phí càng thấp, tính thanh khoản của nguồn càng cao. Tính thanh khoản của nguồn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự phát triển của thị trường tài chính, sự gia tăng thu nhập của dân cư và tính nhạy cảm của thu nhập với lãi suất, vị tríânf mạng lưới ngân hàng…
1.3. Cung và cầu thanh khoản, mua và bán thanh khoản
Cung thanh khoản chính là khả năng cung ứng tiền của một ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc giữ tài sản thanh khoản và khả năng huy động mới.
Cầu thanh khoản là nhu cầu thanh toán của khách hàng mà ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng. Cầu thanh khoản bao gồm yêu cầu chi trả và vay hợp pháp của ngân hàng.
Việc ngân hàng bán các tài sản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi la bán thanh khoản. Việc mở rộng nguồn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi là mua thanh khoản trên thị trường. Cả bán và mua thanh khoản đều gắn liền với chi phí: đó là tổn thất mà ngân hàng phải chấp nhận khi bán tài sản với giá thấp hơn dự tính và lãi suất cao hơn mà ngân hàng phải trả để có nguồn mới. Chi phí này là cái giá mà ngân hang phải trả để có được thanh khoản. Do yêu cầu cấp bách trong thanh toán nên chi phí huy động (mua thanh khoản) của ngân hàng thường cao hơn huy động bình thường.
Hoạt động thanh khoản tại ngân hàng thương mại :
Tính thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng (ví dụ như rút tiền và yêu cầu vay của khách hàng) được tạo bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn. Khả năng thanh khoản tại các ngân hàng là mục tiêu di động luôn được hình thành từ những thay đổi trên thị trường tài chính. Một ngân hàng được coi là có tính thanh khoản cao khi nó có đủ ngân quỹ và các tích sản lưu hoạt khác cùng với khả năng tăng vốn nhanh từ các nguồn khác nhau với chi phí thấp, khiến nó có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ chi trả và các ràng buộc tài chính, theo một phương pháp thích hợp.
1.4. Rủi ro thanh khoản
Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi cung thanh khoản không đáp ứng được cầu thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản chỉ là một vấn đề thông thường xảy ra hàng ngày đối với hoạt động ngân hàng. Chỉ trong trường hợp đặc biệt hạn hữu nó mới đe doạ đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Vì thanh khoản là vấn đề thường nhật, cho nên một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với nhà quản lý là đảm bảo khả năng thanh khoản một cách thường xuyên và đầy đủ.
Tại sao ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản ?
+ Những nguyên nhân tiền đề : có 3 nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là :
- Ngân hàng huy động và đi vay vốn với thời hạn ngắn, và cứ tuần hoàn chúng để sử dụng cho vay với thời hạn dài hơn. Do đó, nhiều khi ngân hàng phải đối mặt với sự không trùng khớp với thời hạn đến hạn giữa tài sản nợ và tài sản có. Ngân hàng luôn phải sẵn sàng thanh khoản để đối mặt với các nhu cầu hoàn trả tức thời.
- Sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay đổi của lãi suất. Khi lãi suất tăng, nhiều người gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm nơi gửi khác có mức lãi suất cao hơn. Những người có nhu cầu tín dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thoả thuận. Như vậy thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng đến luồng tiền vào ra của ngân hàng và cuối cùng là đến thanh khoản của ngân hàng.
- Ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo. Những trục trặc về thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào ngân hàng. Ngân hàng phải liên hệ chặt chẽ với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn và những khách hàng đang còn hạn mức tín dụng lớn chưa sử dụng hết để biết được kết hoạch của họ khi nào thì rút tiền và rút bao nhiêu để có phương án thanh khoản thích hợp.
+ Ngưyên nhân từ hoạt động :
- Nguyên nhân từ bên tài sản nợ : rủi ro thanh khoản có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi những người gửi tiền thực hiện việc rút tiền ngay lập tức. Để đáp ứng nhu cầu này ngân hàng phải đi vay trên thị trường tiền tệ hoặc bán bớt tài sản với giá thấp.
- Nguyên nhân từ bên tài sản có : rủi ro thanh khoản phát sinh liên quan đến các cam kết tín dụng. Một cam kết tín dụng cho phép người vay rút tiền vay bất cứ lúc nào trong thời hạn của nó, ngân hàng phải đảm bảo có đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro thanh khoản.
Như vậy trong hầu hết các trường hợp khi ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thì chi phí huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu gửi tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và ngân hàng buộc phải bán thốc bán tháo tức thời ngay cả số tài khoản khó chuyển nhượng với giá thấp. Do bán khẩn cấp một số tài sản nên khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe doạ. Từ chỗ đối mặt với rủi ro thanh khoản ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro rủi ro phá sản. Mà ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu như không taqng đủ và kịp thời nguồn thanh khoản cho dù khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng là tốt. Từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của quản lý thanh khoản của các nhà quản trị ngân hàng.
II. CÁC CHỈ TIÊU THANH KHOẢN
- Tỷ lệ tín dụng/tiền gửi : nếu một ngân hàng có tỷ lệ này cao, hàm ý ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn để tài trợ tín dụng.
- Tỷ lệ tiền vay/tổng tài sản : nếu một ngân hàng có tỷ lệ này cao, hàm ý ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn để tài trợ tín dụng.
- Tỷ lệ cam kết tín dung/tổng tài sản : tỷ lệ này cao phản ánh nhu cầu thanh khoản cũng phải cao để đáp ứng nhu cầu rút tiền ra bất cứ lúc nào của người vay. Như vậy một ngân hàng có nhiều cam kết tín dụng sẽ phải đối mặt với rủi ro thanh khoản cao hơn ngân hàng có ít cam kết tín dụng.
- Chỉ tiêu trạng thái tiền mặt :
Trạng thái tiền mặt = (tiền mặt + tiền gửi đến hạn tại các tổ chức tín dụng khác)/tổng tài sản có
Nếu chỉ tiêu này càng cao, hàm ý ngân hàng càng có khả năng xử ký các nhu cầu tiền mặt tức thời.
- Chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản
Chứng khoán thanh khoản = chứng khoán chính phủ/tổng tài sản có
Các chứng khoán thanh khoản bao gồm trái phiếu và tín phiếu kho bạc là những chứng khoán có độ thanh khoản cao nhất.
- Chỉ tiêu năng lực sử dụng vốn sinh lời
Năng lực sử dụng vốn = (dư nợ tín dụng + dư nợ cho thuê)/tổng tài sản có
Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản thanh khoản cao nhất, do đó chỉ tiêu này càng lớn ngân hàng càng bộc lộ là kém thanh khoản.
- Chỉ tiêu tiền nóng
Chỉ tiêu tiền nóng = tiền nóng bên tài sản có/tiền nóng bên tài sản nợ
Tiền nóng là các loại tài sản nhạy cảm lãi suất thường gồm tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn, chứng khoán chính phủ ngắn hạn và các tài sản có thể chuyển thành tiền trong ngắn hạn.
- Chỉ tiêu tiền gửi thường xuyên
Tiền gửi thường xuyên = tiền gửi thường xuyên/tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn thì ngân hàng càng đảm bảo được thanh khoản
- Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi
Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi = tiền gửi không kỳ hạn/tiền gửi có kỳ hạn
Chỉ tiêu này càng thấp thì nhu cầu thanh khoản của ngân hàng càng thấp.
PHẦN 3QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI NIỆM
Quản trị thanh khoản là một lĩnh vực quản lý quan trọng đối với mọi định chế tài chính. Các ngân hàng thương mại đều tham gia vào quá trình trung gian hoá kỳ hạn, đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn do vậy nhất thiết ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản tiềm năng. Quản lý thanh khoản là một lĩnh vực quản lý nhằm đáp ứng mục tiêu thanh khoản của ngân hàng tránh rủi ro thanh khoản cao.
Việc quản lý thanh khoản không phải là việc dễ làm bởi vì mỗi loại tài sản khác nhau đều có sự khác nhau về thanh khoản. Ngoài ra yêu cầu thanh khoản cũng biến đổi đáng kể trong các NHTM khác nhau và chủ yếu tuỳ theo tính ổn định và khả năng tiên liệu các nguồn quỹ. Khi xác định mức thanh khoản, nhà quản lý sẽ phải cân nhắc cẩn trọng giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời vì thanh khoản của ngân hàng liên quan trực tiếp đến an toàn và tính sinh lời. Đó la hai mặt của một bài toán, lãi suất cao gắn với tài sản tài chính có kỳ hạn dài và tính lưu hoạt kém, còn tỷ suất lợi tức thấp gắn với tài sản tài chính có kỳ hạn ngắn và tính lưư hoạt cao hơn, mà lời giải là nhà quản trị phải cân đối cho được nhu cầu thanh khoản với các mục đích sinh lợi. NHTM có thể giảm tối thiểu khả năng thanh toán của nó như thu hồi vốn thông qua việc bán lại các tài sản có tính thanh khoản cao và đầu tư vào các tài sản dài hơn để tìm kiếm mới lợi nhuận cao hơn, nhưng làm như vậy sẽ có mức rủi ro cao hơn, đồng thời có nguy cơ thiếu thanh khoản và thậm chí chịu thêm rủi ro lãi suất bởi tài sản có kỳ hạn dài.
Ngược lại có thể giảm tối thiểu rủi ro thiếu thanh khoản bằng cách chỉ nắm giữ đa số các tài sản có tính thanh khoản cao so với nhu cầu thanh khoản dự kiến nhưng ảnh hưởng đến mức sinh lời. Để gia tăng an toàn thanh khoản, chi phí cũng phải gia tăng. Có thể làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy duy trì an toàn thanh khoản – tức khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản là mục tiêu quan trọng và xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng.
II. MỤC TIÊU QUẢN LÝ THANH KHOẢN
- Đảm bảo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí hợp lý
- Dự đoán các nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra.
III. NỘI DUNG QUẢN LÝ THANH KHOẢN
Quản lý thanh khoản không chỉ được đặt ra đối với các ngân hàng thương mại mà còn đối với các trung gian tài chính hoạt động dựa trên tiền gửi. Tuy nhiên nội dung quản lý thường có điểm khác nhau giữa các ngân hàng khác nhau(tại các vùng khác nhau, tuỳ thuộc mục tiêu và chiến lược phát triển trong từng thời kỳ, các quy mô và điều kiện pháp lý khác nhau…). Có ngân hàng qủan lý thanh khoản nghiêng về phía tài sản, có ngân hàng nghiêng về phí nguồn(tức là duy trì khả năng vay nhanh chóng)… Đồng thời cũng có nhiều trường phái quản lý thanh khoản khác nhau, như trường phái quản lý khe hở thanh khoản (kết hợp cung cầu thanh khoản), trường phài quản lý theo các tỷ lệ thanh khoản,,,
Dưới đây là sơ đồ thể hiện mối liên hệ giữa cung, cầu thanh khoản và tài sản, nguồn vốn của ngân hàng:
Tài sản
Nguồn vốn
Cung thanh khoản
Cầu thanh khoản
Một cách tổng quát, thanh khoản ngân hàng có thể phân tích trong khuôn khổ cung cầu, nghĩa là xác định những nhu cầu chi trả và những nguồn thu của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Trong đó, những nhu cầu chi trả tại thời điẻm t gọi là “Cầu thanh khoản – kí hiệu D” và những nguốn t hu tại thời điểm t gọi là “Cung thanh khoản – kí hiệu là S”.
3.1. Xác định cầu thanh khoản
Để có thể thực hiện các mục tiêu quản lý thanh khoản, nhà quản lý phải xác định cầu thanh khoản, bao gồm các yếu tố tạo nên cầu thanh khoản, các nhân tố tác động đến cầu thanh khoản và ước lượng cầu thanh khoản.
Cầu thanh khoản được tạo thành bởi các yếu tố chính sau :
- Nhu cầu rút tiền của người gửi : đây là nhu cầu thanh khoản chính có tính thường xuyên, tức thời và vô điều kiện; bao gồm tất cả các loại thuộc tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi phát hành séc, tiền gửi có kỳ hạn có thể rút trước hạn, tiền gửi có kỳ hạn thanh toán khi đến hạn, thanh toán kỳ phiếu và trái phiếu khi đến hạn…
- Nhu cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng để thanh toán hàng hoá và dịch vụ mà ngân hàng cam kết cho vay. Đây là các quan hệ tín dụng mà ngân hàng muốn duy trì và đáp ứng, bao gồm nhu cầu cấp tín dụng mới, gia hạn khi khoản vay đến hạn, sỉư dụng hạn mức tín dụng hay thực hiện cam kết tín dụng.
- Các khoản tiền vay đến hạn phải trả : đây là quan hệ tín dụng trên thị trường tiền tệ bao gồm hoàn trả tiền vay từ các ngân hàng khác, từ NHTW và các thoả thuận mua lại.
- Chi phí hoạt động và trả thuế : bao gồm các chi p