Đề tài Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín

Nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh và thời đại hội nhập toàn cầu đã thực sự đến với Việt Nam biến đổi các mô hình kinh doanh nhỏ lẻ, thiếu tập trung – mô hình kinh doanh chủ yếu của Việt Nam từ trước tới nay đứng trước hai chọn lựa sống còn: Một là biến chuyển mô hình hoạt động kinh doanh lên tầm cỡ chuyên nghiệp, cơ hội ứng dụng nhiều trình độ, kiến thức và công nghệ để bắt kịp tiến độ của thị trường cũng như sự phát triển của thế giới và hai là chấp nhận sự đào thải. Như vậy, đối với doanh nghiệp, để tồn tại họ chỉ có một lựa chọn duy nhất là biến chuyển và trong cuộc đua biến chuyển này, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã tỏ ra xác định được vai trò tiên phong của mình đối với các kĩnh vực khác nên thực hiện khá nhanh nhẹn và thành công. Tuy nhiên, với bất kỳ sự thay đổi nào, đều phát sinh những bất trắc hay rủi ro, đòi hỏi các cá nhân hay doanh nghiệp phải bản lĩnh xác định và quản trị các rủi ro này một cách có hiệu quả nhất. Hệ thống ngân hàng thương mại nước ta hiện nay đang đổi mới nhằm thích ứng với giai đoạn kinh tế thị trường. Hoạt động của các ngân hàng chủ yếu là hoạt động tín dụng, đây là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất, nhưng cũng là nghiệp vụ mang lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Nếu xuất hiện, rủi ro tín dụng sẽ có tác động rất lớn và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng. Cao hơn nó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do đó, rủi ro tín dụng luôn là đề tài đang được quan tâm và mang tính thời sự cao. Vì vậy nên em xin được chọn đề tài: " Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín”. Với kiến thức, tài liệu có hạn và kinh nghiệm chưa có nhiều nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong quý thầy cô và các anh chị trong NHTMCP Sài Gòn Thương Tín cùng các anh chị tại Sở giao dịch TP.HCM đóng góp ý kiến để em hoàn thành chuyên đề một cách tốt hơn, khoa học hơn.

doc35 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.1 Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng: 2.1.1 Tổng quan về rủi ro: Có rất nhiều cách tiếp xúc khác nhau về rủi ro nhưng cách tiếp cận phổ biến nhất là khi xem rủi ro như là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại tài chính. Nói cách khác, rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút về lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến khi có những biến cố không mong đợi xảy ra. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng là yếu tố mang tính khách quan do đó chúng ta chỉ có thể hạn chế được số lần xuất hiện và mức độ tác hại của rủi ro chứ không loại bỏ hẳn rủi ro. Rủi ro tài chính nói chung có thể chia thành ba loại: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. 2.1.1.1 Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh do khách hàng không còn khả năng chi trả. Trong hoạt động Ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng mất khả năng trả nợ một khoản vay nào đó, lưu ý rằng trong hoạt động tín dụng, khi Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay thì đó mới chỉ là một giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi nào Ngân hàng thu hồi về được khoản cho vay cả gốc lẫn lãi. Tuy nhiên, khi thực hiện giao dịch tín dụng Ngân hàng không biết được giao dịch đó có hoàn thành hay không, nó có khả năng hoàn thành cũng có khả năng không hoàn thành. Do đó rủi ro tín dụng thể hiện ở khả năng hay xác suất hoàn thành giao dịch đó. 2.1.1.2 Rủi ro lãi suất: Rủi ro lãi suất là rủi ro do sự biến động của lãi suất. Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng theo đó tổ chức tín dụng có những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi. Nếu Ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí trả lãi của Ngân hàng tăng theo. Ngược lại, nếu Ngân hàng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập lãi cho vay của Ngân hàng giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi Ngân hàng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu hoặc đầu tư tài chính khá lớn và theo lãi suất thị trường. 2.1.1.3 Rủi ro tỷ giá: Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của Ngân hàng. Nhưng nhìn chung bất cứ hoạt động nào mà ngân lưu thu phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi ngân lưu chi phát sinh một loại đồng tiền khác đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá. Trên thực tế rủi ro có thể xuất hiện tại tất cả các nghiệp vụ Ngân hàng như: thanh toán, tín dụng, tiền gửi, ngoại tệ, đầu tư,…Vì vậy, vấn đề rủi ro luôn được các Ngân hàng đặc biệt chú trọng nghiên cứu, phân tích thậm chí ngay khi nền kinh tế đang rất ổn định. Tuy nhiên do hoạt động chủ yếu của Ngân hàng là tín dụng, do đó trong phạm vi chuyên đề tốt nghiệp, tôi chỉ tập trung phân tích rủi ro tín dụng . 2.1.2 Một số vấn đề liên quan đến rủi ro tín dụng: 2.1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay của Ngân hàng, được biểu hiện là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho Ngân hàng dẫn đến những tổn thất nhất định cho Ngân hàng . Để đánh giá rủi ro tín dụng ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: Hệ số quá hạn (HNQH): Dư nợ quá hạn HNQH = Tổng dư nợ cho vay Với 1đồng vốn Ngân hàng bỏ ra để cho vay thì nó sẽ phát sinh bao nhiêu đồng nợ quá hạn. Hiện nay, NHNN khống chế tỷ lệ nợ quá hạn trong các NHTM không được vượt quá 5%. Hiện nay, việc quản lý nợ quá hạn rất được các Ngân hàng chú trọng, nợ quá hạn được chi tiết như sau: + Nợ quá hạn dưới 90 ngày có khả năng thu hồi. + Nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày có khả năng thu hồi. + Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày có khả năng thu hồi. + Nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên (nợ khó đòi). Hệ số rủi ro tín dụng ( HRRTD): Tổng dư nợ cho vay HRRTD = Tổng tài sản có Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. 2.1.2.2 Các lọai rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng thuần túy: Xảy ra khi bên vay không theo đúng thời hạn và điều kiện của khế ước vay vốn và do vậy gây ra thua lỗ về tài chính cho bên vay. Mức độ rủi ro sẽ phụ thuộc nhiều vào cơ cấu của khoản vay. Rủi ro tín dụng thuần túy sẽ được hạn chế nhờ vào tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, hợp đồng giấy tờ đầy đủ và các kỹ thuật cho vay cẩn trọng khác. Rủi ro bao tiêu: Do người tạo ra khoản vay chịu trước khi bán lại cho một bên khác. Rủi ro xuất hiện khi người cho vay thế chấp tạo ra các khoản cho vay với ý định bán chúng, nên khi đánh giá tài sản thế chấp cao hoặc thẩm định tín dụng sơ sài. Do đó khoản cho vay không đáp ứng được các yêu cầu của bên thứ ba thì người tạo ra khoản vay đố sẽ không thể bán được. Rủi ro thanh toán: Sẽ xảy ra nếu một đối tác trong giao dịch không có khả năng kết thúc giao dịch đó. Hay gặp nhất là trường hợp có các khoản đầu tư thương mại lớn. Các bên đối tác thường không thực hiện các cam kết mua hoặc bán, trong khi đó giá của tài sản đảm bảo cho khoản vay lại dao động rất nhiều. Khi không được thanh toán thì nhà môi giới hoặc Ngân hàng có thể bị thua lỗ. Rủi ro tài liệu: Xuất hiện khi có các tài liệu giấy tờ được chuẩn bị không kỹ. Đây sẽ trở thành một vấn đề đặc biệt quan trọng nếu như nhân viên không được đào tạo về đánh giá mọi yếu tố pháp lý của khoản vay. Do đó ta có thể sử dụng các tài liệu theo tiêu chuẩn thống nhất để loại bỏ rủi ro này. Rủi ro họat động: Cũng có thể xuất hiện do công tác đào tạo nhân viên không tốt, làm cho khoản vay không được hình thành một cách đúng đắn. Lọai rủi ro này thường gặp nhất ở những thời kỳ có những nhu cầu vay vốn lớn, và càng bị trầm trọng thêm do các yếu tố như: chế độ tín dụng mới làm các công việc cần thực hiện khi cho vay càng trở nên phức tạp hơn. Rủi ro chính trị: Có thể liên quan đến rủi ro cho vay ở nước ngoài hoặc đến chế độ và sự kiểm tra của các NHTM. Trước đây các tổ chức kinh doanh buôn bán quốc tế đã tranh thủ được sự khác nhau về chế độ và dẫn đến nhu cầu phải có chế độ theo tiêu chuẩn quốc tế. Rủi ro sự kiện: Được đưa ra do có những thay đổi bất ngờ ở những lĩnh vực có thể tác động đến uy tín của ngân hàng. Những thay đổi này có thể xảy đến với quyền sở hữu, tới cơ cấu kiểm tra và cơ cấu vốn. Tương tự như vậy, việc mua cổ phần cũng có thể gây ra giảm sút chất lượng nợ mà người sở hữu nợ phải chịu. Chúng ta thấy là một số loại rủi ro có thể kiểm soát được – Rủi ro tín dụng thuần túy, rủi ro tài liệu và rủi ro hoạt động. 2.1.2.3 Biểu hiện của rủi ro tín dụng: Mức độ thấp: là những khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi. Loại này xảy ra khi khách hàng hoàn trả nợ chậm trễ so với cam kết trong hợp đồng tín dụng do khách hàng tạm thời gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh dẫn đến khả năng thanh toán hiện thời kém ngoài ý muốn của doanh nghiệp. Ví dụ doanh nghiệp bán hàng bị chậm thanh toán hoặc hàng hóa sản xuất ra nhưng chưa tiêu thụ kịp. Công trình xây dựng, thi công nhưng chưa quyết toán,…và ở mức độ này khách hàng vẫn duy trì ý trí trả nợ và Ngân hàng kiểm soát được nguồn thu của khách hàng nên ở mức độ này Ngân hàng có khả năng thu hồi được nợ vay. Mức độ thấp thì rủi ro cũng thấp nhưng nó cũng ảnh hưởng đến mức độ thanh khoản của Ngân hàng, khi mà kế hoạch cân đối vốn bị thay đổi và làm chậm vòng quay vốn của Ngân hàng và có thể không đáp ứng được kịp thời những khoản tín dụng tốt. Mức độ cao: ( những khoản nợ khó đòi ) Mức độ này khách hàng không còn khả năng trả nợ vay, khách hàng bỏ trốn hay mất tích và tài sản thế chấp khó thanh lý. Nguyên nhân của mức độ rủi ro này có thể là do khách hàng thất bại lớn trong kinh doanh cũng có thể do ý đồ trả nợ không tốt, cố tình lừa đảo chiếm đọat vốn vay hoặc kinh doanh sản xuất hàng hóa không được thị trường chấp nhận…Đưa Ngân hàng đến rủi ro vỡ nợ có thể không thu hồi được một phần hoặc toàn bộ khoản vay ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng. 2.1.2.4 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng: Trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và các NHTM nói riêng đang đứng trước những thách thức mới gắn liền với rủi ro tiềm ẩn cao hơn. Chúng ta cần nhận thức vai trò quan trọng của rủi ro trong họat động tín dụng, lượng hóa mức độ rủi ro, xác định nguyên nhân từ đó có biện pháp hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu quả họat động kinh doanh cho Ngân hàng. Sau đây là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng tại một số Ngân hàng: Do nguồn nhân lực: Đây là loại rủi ro phát sinh từ bên trong Ngân hàng do CBTD: - Làm trái qui trình tín dụng để mưu lợi cá nhân; - Định giá tài sản thế chấp không đúng với giá trị thực tế do trình độ nghiệp vụ kém hay do có sự thông đồng với khách hàng; hoặc do tài sản thế chấp bị mất giá. Khi Ngân hàng thẩm định cho vay thì tài sản thế chấp đang giá cao, sau đó giá giảm mạnh, khách hàng không trả được nợ, Ngân hàng xiết nợ nhưng không bán được do giá quá thấp, hoặc là không có người mua, hoặc là tiền thu về thấp hơn so với số tiền cho vay; - Trực tiếp thu nợ gốc và lãi nhưng không nộp lại cho Ngân hàng mà dùng cho mục đích cá nhân; - Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, vay hộ, nhờ người vay hộ, vay tiền ngân hàng chuyển cho công ty TNHH gia đình; - Tẩy xoá, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền ngân hàng; Do yếu tố kỹ thuật: Đối với hoạt động quản trị rủi ro: hoạt động phòng ngừa rủi ro tín dụng chủ yếu dựa trên chính sách tín dụng. Tuy nhiên trong các Ngân hàng vẫn còn tồn tại những hạn chế như: + Các Ngân hàng chưa có bộ phận quản trị rủi ro chuyên biệt để quản lý, phân loại, tích hợp dự phòng và xử lý các khoản nợ có vấn đề nhằm phòng ngừa và hạn chế thấp nhất rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. CBTD sẽ thực hiện tất cả các nghiệp vụ khi thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng từ khâu tiếp nhận, kiểm tra điều kiện cho vay, thẩm định hồ sơ vay vốn, kiểm soát trong và sau khi cho vay, thanh lý hợp đồng hoặc xử lý khi nợ có vấn đề. + Ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng trong quá trình thẩm định: Hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp thiếu thông tin từ các báo cáo tài chính được kiểm tra một cách chính xác kịp thời, nhiều doanh nghiệp chưa tiến hành kiểm toán hoặc chậm hơn so với thời gian Ngân hàng cần thông tin để sử dụng cho quá trình phân tích. Đối với khách hàng là cá nhân thì thông tin về thu nhập cơ bản, thu nhập khác kê khai không đầy đủ làm cho việc xác định dòng tiền không chính xác. + Công tác đánh giá tín dụng và xếp loại giữa các Ngân hàng không thống nhất: Việc chấm điểm tín dụng và xếp loại khách hàng là quá trình giúp cho Ngân hàng thương mại đánh giá khả năng thực hiện các nghiệp vụ tài chính của một khách hàng đối với Ngân hàng nhằm xác định rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Ngoài ra, còn là công cụ để giám sát và đánh giá khách hàng, lường trước được những dấu hiệu xấu về chất lượng khoản vay và có biện pháp ứng phó kịp thời. Việc không thống nhất trong công tác đánh giá và xếp loại khách hàng sẽ làm cho các Ngân hàng gặp trở ngại khi tham khảo thông tin xếp loại khách hàng. + Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa cao, việc chấp hành các quy định của NHTM về an toàn vốn, về tín dụng, về bảo lãnh vẫn chưa chấp hành đầy đủ, công tác tổ chức, quản lý CBTD còn nhiều bất cập. Đối với chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng không hợp lý, đầu tư tín dụng vào nhiều dự án lớn, tỷ trọng cho vay trung dài hạn cao trong khi đó nguồn vốn dài hạn thấp…cùng với những vấn đề mang tính kỹ thuật: định giá tài sản đảm bảo, định kỳ hạn nợ không hợp lý,…cũng là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn và rủi ro tín dụng . Do yếu tố thị trường, yếu tố khách hàng: - Biến động giá cả, đặc biệt là giá cả hàng hóa chủ lực, quan hệ cung cầu hàng hóa thay đổi, đã tác động ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai thực hiện dự án, đến hiệu quả dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng và gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng Ngân hàng và chất lượng tín dụng. - Nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng: Đó có thể là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đáp ứng nhu cầu; năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh; công nghệ sản xuất không tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao; hoặc khách hàng thiếu thiện chí trả nợ vay Ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn,... Do yếu tố môi trường và công cụ pháp lý: Rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, hạn hán … phá hủy sản xuất kinh doanh. Thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước (biến động tỷ giá, tăng giảm bất thường của giá cả trên thị trường, thay đổi chính sách XNK, chính sách về đất đai, do tiền tệ bị mất giá,…) dẫn đến không có lợi cho người sản xuất kinh doanh. Môi trường kinh doanh họat động chứa nhiều rủi ro, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng gay gắt, mọi Ngân hàng đều muốn mở rộng địa bàn và chiếm lĩnh thị trường vì vậy mà có sự dễ dãi trong việc cấp tín dụng. Vì thế mà có sự xuất hiện của những khoản nợ xấu là điều tất yếu. Đây cũng là quy luật của sự cạnh tranh trong môi trường kinh doanh một khi lợi nhuận tăng thì rủi ro cũng tăng . Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng tại Ngân hàng chưa đầy đủ, thông tư chỉ thị của bộ, ngành có liên quan có nhiều bất hợp lý, chồng chéo nhau nên việc đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp ở các Ngân hàng khác nhau, không đồng bộ tạo ra tâm lý không tốt cho khách hàng. 2.1.2.5 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng: Đối với Ngân hàng: Khi rủi ro xảy ra có nghĩa là Ngân hàng không thu được nợ (nợ gốc và lãi) hoặc thu không đúng thời hạn. Nếu rủi ro ở mức độ cao thì Ngân hàng sẽ bị giảm doanh thu mà Ngân hàng có chức năng trung gian tài chính (đi vay để cho vay) nên trong khi doanh thu bị giảm mà khi đó Ngân hàng vẫn phải chi trả lãi tiền gửi và các khoản chi phí trong họat động Ngân hàng do đó sẽ dẫn đến mất cân đối trong thu chi nghiệp vụ. Từ đó làm thu hẹp lợi nhuận của Ngân hàng hoặc đôi khi bị lỗ. Dẫn đến nguồn vốn của Ngân hàng không những không được mở rộng mà còn bị thu hẹp lại do khó bù đắp các khoản chi phí hoạt động của Ngân hàng, lúc này Ngân hàng phải dùng vốn tự có để bù đắp rủi ro. Sức mạnh tài chính của Ngân hàng sẽ bị giảm sút. Trong khi đó việc kinh doanh Ngân hàng lại là kinh doanh lòng tin, mà khi lòng tin bị mất thì trước mắt Ngân hàng muốn tồn tại được phải huy động thêm vốn lúc này sẽ không có ai gởi tiền vào cả. Hơn nữa Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp trong cơ chế thị trường mà sức mạnh tài chính yếu thì sức cạnh tranh sẽ kém và không thu hút được khách hàng. Khi thanh khoản không đáp ứng được nhu cầu rút vốn của khách hàng gửi tiền, nếu không có sự hỗ trợ của các Ngân hàng bạn và NHNN thì sẽ dẫn tới tình trạng phá sản. Đối với khách hàng: Khi Ngân hàng bị rủi ro ở mức độ cao thì không những Ngân hàng bị thiệt hại mà khách hàng cũng không tránh khỏi bị thiệt hại. Vì Ngân hàng và khách hàng có mối liên hệ chặt chẽ thúc đẩy nhau cùng phát triển. Khi Ngân hàng lâm vào tình trạng rủi ro nặng thì khách hàng gửi tiền có thể không rút được tiền khi cần thiết hoặc bị mất vốn khi Ngân hàng phá sản, do đó làm cho doanh nghiệp cũng lâm vào tình trạng tài chính yếu. Về phía khách hàng vay vốn : Khi có dự án khả thi mà vốn không đủ phải vay Ngân hàng. Trong khi đó Ngân hàng lại lâm vào tình trạng trên thì khách hàng không vay được tiền, không thực hiện được cơ hội kinh doanh của mình, do đó sản xuất không thể phát triển được. Đấy là tổn thất lớn vì trong kinh doanh thời cơ là yếu tố quyết định sự thành công. Đối với nền kinh tế: Một khi xảy ra trường hợp một Ngân hàng nào đó bị mất khả năng chi trả. Nếu không có sự hỗ trợ can thiệp của các Ngân hàng bạn và NHNN thì sẽ làm cho tâm lý người dân mất ổn định, khách hàng gửi tiền lo sợ bị mất vốn nên sẽ đồng loạt đến rút tiền càng làm cho Ngân hàng lâm vào tình trạng nặng nề hơn, nhanh phá sản hơn, dẫn đến các Ngân hàng khác cũng có tình trạng như vậy. Đây là ảnh hưởng lan tỏa đã từng xảy ra ở hệ thống các tổ chức tín dụng ở nước ta vào năm 1989-1990 đã làm sụp đổ hàng loạt các tổ chức tín dụng, làm xáo trộn hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và sẽ có nhiều Ngân hàng khác cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Dẫn đến toàn bộ hệ thống Ngân hàng bị sụp đổ. Lúc này nền kinh tế bị rối loạn hoàn toàn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị ngưng trệ, khủng hoảng kinh tế không tránh khỏi, lạm phát sẽ gia tăng, thất nghiệp càng nhiều dẫn đến tệ nạn xã hội phát triển, an ninh chính trị sẽ không ổn định,… Hậu quả của chất lượng tín dụng yếu kém không chỉ là thất thoát vốn. Sẵn có Ngân hàng tài trợ, nhiều dự án kém chất lượng được đưa vào thực hiện, gây tổn thất lớn về nguồn lực ở nhiều địa phương vốn đã rất nghèo. Nhiều cán bộ lợi dụng làm giàu nhanh chóng. Trước mắt, các Ngân hàng phải tăng quĩ dự phòng tổn thất để xử lý, dẫn đến giảm nộp ngân sách và giảm khả năng tích lũy. Về lâu dài, ngân sách Nhà nước phải chi trả cho những khoản tổn thất mà Ngân hàng đã ứng trước, hoặc do doanh nghiệp nhà nước gây ra. Ngày nay với xu hướng mở cửa nền kinh tế, nền kinh tế của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào chính năng lực, tiềm lực kinh tế của nước mình mà còn phụ thuộc ít nhiều vào nền kinh tế trong khu vực và thế giới, nền kinh tế của một quốc gia cũng là một bộ phận của kinh tế thế giới. Do đó khi nền kinh tế của một nước khủng hoảng thì sẽ ảnh hưởng chung nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Điều này đã được chứng minh bằng cuộc khủng hoảng tiền tệ ở một số nước Đông Nam Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001- 2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. 2.1.2.6 Mối quan hệ giữa rủi ro và thu nhập trong kinh doanh ngân hàng: Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng luôn có sự song hành giữa rủi ro và thu nhập kỳ vọng. Điều này có nghĩa là một nghiệp vụ mà Ngân hàng thể hiện mức rủi ro càng lớn thì thu nhập kỳ vọng càng cao. Quan hệ giữa rủi ro và thu nhập kỳ vọng được biểu diễn qua đồ thị sau: Qua đồ thị ta thấy: Mức độ rủi ro nhỏ hơn B là an toàn. Tại điểm A là lý tưởng nhất vì độ rủi ro ở mức độ cho phép và đảm bảo mang lại thu nhập kỳ vọng cao nhất. Rủi ro tăng thì lợi nhuận dự kiến tăng theo nhưng khi vượt qua A thì rủi ro tăng nhưng lợi nhuận có chiều hướng giảm vì khả năng xuất hiện rủi ro lớn. Để thể hiện mối quan hệ giữa mức độ rủi ro trong sử dụng tài sản có với vốn tự có của Ngân hàng, ta có thể sử dụng hệ số H3 (Hệ số Cooke): Vốn tự có H3 = Tổng tài sản có rủi ro quy đổi 2.1.3 Những quy chế cụ thể về tín dụng tại Sacombank : Theo quyết định 253/2005/QĐ-HĐQT ngày 14/07/2005 của Hội đồng quản trị Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín có những quy chế sau: 2.1.3.1 Đối tượng khách hàng của Sacombank : Các pháp nhân và cá nhân Việt Nam: Các pháp nhân bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức có đủ điều kiện được quy định tại điều 94 của Bộ Luật Dân sự. Các cá nhân. Ngoài ra còn có hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. Các pháp nhân và cá nhân nước ngoài. 2.1.3.2 Nguyên tắc vay vốn: Khách hàng vay vốn của Ngân hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả vốn gốc và tiền lãi đúng kỳ hạn đã thỏa thuận. Khi cho vay bằng ngoại tệ, Ngân hàng và khách hàng phải thực hiện đúng quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về quản lý ngoại hối. 2.1.3.3 Điều kiện vay vốn: Khách hàng muốn được xem xét cho vay phải hội đủ các điều kiện sau đây: Có năng lực pháp luật dân sự, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Đối với khách hàng là tổ chức và cá nhân Việt Nam: -Tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự. -Cá nhân; chủ doanh nghiệp tư nhân; thành viên công ty hợp danh; đại diện hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với khách hàng là tổ chức và cá nhân nước ngoài: phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của nước mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuong 2.doc
  • docBia.doc
  • docChuong 1.doc
  • docChuong 3.doc
Tài liệu liên quan