Hiện nay, người ta ước tính có khoảng hơn phân nửa dân số trên thế giới đã từng bị nhiễm một hoặc nhiều siêu vi gây viêm gan từ siêu vi A đến siêu vi G. Nhiễm siêu vi A và E chỉ gây ra bệnh lý cấp tính và diễn tiến bệnh thường tự giới hạn, ít để lại hậu quả nghiêm trọng. Ngược lại, viêm gan siêu vi B, C và D có thể dẫn đến những nhiễm trùng dai dẳng mãn tính với nguy cơtiến triển sang xơ gan, ung thư gan và đưa đến tử vong
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 47 trang
47 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy trình chẩn đoán viêm gan c bằng kỹ thuật pcr elisa và real-Time pcr, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
LỜI MỞ ĐẦU 
 Hiện nay, người ta ước tính có khoảng hơn phân nửa dân số trên thế giới 
đã từng bị nhiễm một hoặc nhiều siêu vi gây viêm gan từ siêu vi A đến siêu vi G. 
Nhiễm siêu vi A và E chỉ gây ra bệnh lý cấp tính và diễn tiến bệnh thường tự 
giới hạn, ít để lại hậu quả nghiêm trọng. Ngược lại, viêm gan siêu vi B, C và D 
có thể dẫn đến những nhiễm trùng dai dẳng mãn tính với nguy cơ tiến triển sang 
xơ gan, ung thư gan và đưa đến tử vong. Hơn nữa, tỉ lệ mắc bệnh viêm gan siêu 
vi B và C nhanh chóng gia tăng ở nhiều quốc gia đã làm cho bệnh này trở thành 
một vấn đề đáng được quan tâm cho sức khoẻ cộng đồng. 
Siêu vi viêm gan C là một trong những bệnh nguy hiểm rất đáng lo ngại 
hiện nay, bởi số lượng người nhiễm bệnh, cũng như các kiểu biến chứng gây 
nguy hiểm đến sức khỏe con người như xơ gan, ung thư thư gan… Ở Việt Nam, 
bệnh này mới xuất hiện gần đây nên chúng ta chưa hiểu rõ được nguyên nhân 
gây ra bệnh và cũng chưa biết cách phòng ngừa nhiều nên chúng ta sẽ dễ dàng 
mắc phải. Viêm gan siêu vi C xâm nhập vào cơ thể nhờ virus HCV (Hepatitis C 
Virus), được Houghton phát hiện vào năm 1989. Từ đó, nhờ vào những thử 
nghiệm tìm anti-HCV, tỉ lệ người bị nhiễm viên gan sau truyền máu đã giảm đi 
đáng kể. Trong suốt thập niên 90 của thế kỷ 20, các nhà khoa học đã đạt được 
nhiều thành tựu mới trong lãnh vực nghiên cứu cấu trúc phân tử của siêu vi và 
đặc biệt là trong điều trị. Hiện này những phương thức trị liệu siêu vi C mặc dù 
chưa phải là hoàn hảo nhưng càng ngày càng có những thuốc mới hơn và hiệu 
quả cao hơn được đưa vào thử nghiệm lâm sàng. Khả năng thường xuyên biến 
đổi cấu trúc di truyền của siêu vi C đã trở thành một thách thức lớn cho việc chế 
tạo thuốc chủng ngừa trong tương lai. Cho nên, nếu ta phát hiện bệnh viêm gan 
siêu vi C này càng sớm càng tốt thì ta sẽ biết được nhiễm genotype C nào, để tìm 
ra loại thuốc điều trị tốt. 
 Để phát hiện ra dòng virus này thì nhiều nhà khoa hoc đã nghiên cứu ra 
nhiều phương pháp phát hiện virus HCV dựa vào các ứng dụng của sinh học 
 2
phân tử như : phương pháp ELISA kết hợp với phương pháp PCR, phương pháp 
lai phân tử (Hybrid Capture, bDNA )...và gần đây nhất là phương phát Real-
Time PCR là phương pháp được sử dụng nhiều nhất hiện nay vì phương pháp 
này, thao tác dễ thực hiện, ít gây sai sót, cho kết quả trong thời gian ngắn, và 
định tính một cách chính xác, độ nhạy cao hơn kỹ thuật bDNA và phương pháp 
xác định bệnh nhân có bị nhiễm viêm gan lại hay không, vì các phương pháp 
khác chỉ xác định được bệnh nhân có bị nhiễm cấp tính hay mãn tính do không 
phân biệt chắc chắn được tình trạng đang nhiễm hay đã lành (hết mầm bệnh 
trong cơ thể, không còn nguy cơ lây lan), ví dụ : phương pháp PCR ELISA, sau 
khi điều trị bệnh đã hết, có nghĩa là kháng nguyên lạ đã không còn, nhưng kháng 
thể vẫn còn tồn tại trong cơ thể một thời gian dài, có khi đến nhiều năm… 
 Do đó, việc chẩn đoán viêm gan C là một trong những nhu cầu cần thiết 
đối với con người. Cho nên, em chọn đề tài này để tìm hiểu quy trình chẩn đoán 
bệnh viên gan siêu vi C bằng phương pháp Real-Time PCR và phương pháp 
PCR ELISA là hai phương pháp thông dụng nhất hiện nay. 
 3
CHƯƠNG1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH VIÊM GAN SIÊU VI C 
1.1 Lịch sử phát hiện bệnh [7] 
 Bệnh viêm gan siêu vi C do Hepatitis C Virus (HCV) gây ra. Đây là một 
bệnh nguy hiểm, thường dẫn đến các biến chứng như xơ gan và ung thư gan 
nguyên phát với tỉ lệ cao. Hiện nay, số người nhiễm HCV trên thế giới ước tính 
khoảng 170 triệu người (số liệu năm 2000). 
 ) Quá trình phát hiện bệnh viêm gan siêu vi C: 
 Năm 1975, Prince và cộng sự nhận định rằng có một chứng bệnh viêm 
gan siêu vi sau truyền máu không do HBV và có thời kỳ ủ bệnh dài hơn thời ủ 
bệnh do HAV. Sau đó, các tác giả khác chứng minh về mặt huyết thanh học rằng 
bệnh viêm gan siêu vi loại này không có liên quan gì đến bệnh viêm gan siêu vi 
A và từ lúc này danh từ “bệnh viêm gan siêu vi không A không B” ra đời. 
 Vào tháng 5 năm 1989, có một phát hiện mới về viêm gan siêu vi không A 
không B được công bố. Bằng phương pháp ly tâm siêu tốc huyết tương thu từ 
những con tinh tinh bị bệnh viêm gan siêu vi, Choo và cộng sự đã tách chiết 
nucleic acid của virus, tổng hợp cDNA từ RNA tách chiết, chèn vào genome (bộ 
gene) của λgt11 và xâm nhiễm E. coli. Trong số hàng triệu dòng thu được có một 
dòng có phản ứng đặc hiệu với kháng thể có trong huyết thanh người bị bệnh 
viêm gan siêu vi không A không B sau truyền máu. Cuối cùng, họ xác định rằng 
bệnh viêm gan siêu vi không A không B do một loại siêu vi mới gây ra, đó là 
siêu vi C (HCV). 
1.2. Đặc điểm của virus gây bệnh viêm gan siêu vi C: [1, tr. 8-12], [20] 
 1.2.1 Đặc điểm sinh học của virus HCV 
 HCV là virus thuộc họ Flaviviridae. Đây là một loại virus RNA, có vỏ 
lipid, đường kính khoảng 55-65 nm. Trọng lượng phân tử khoảng 4.106 daltons. 
Bộ gen (genome) của siêu vi là một chuỗi đơn RNA có cực tính (+), nằm bên 
 4
trong phần nucleocapsid hình đa diện. Ở ngoài cùng là lớp vỏ lipid chứa các 
protein E1 và E2 tạo thành các phức hợp dimer ( Hính1.1). 
Điểm đặc biệt ở virus này là chưa có một nghiên cứu nào có thể xác định 
cấu trúc chính xác của virus. Cho đến nay, các nhà khoa học chỉ thiết lập nên 
một mô hình mang tính chất mô phỏng cấu trúc của virus này. Nguyên nhân của 
việc này là do HCV không thể gây nhiễm nhân tạo trên các dòng tế bào hiện có 
trên các phòng thí nghiệm trên thế giới (không phân lập được virus mà chỉ tách 
được gen di truyền ( acid nhân ) trong huyết tương người bị nhiễm HCV RNA). 
Đây chính là một trong những trở ngại lớn trong việc tìm hiểu cặn kẽ về virus 
này. 
Mật độ các hạt tử của virus HCV trong huyết thanh rất thay đổi, từ 1,03 
đến 1,72g/ml. Sở dĩ có sự thay đổi này là do các virion lưu hành trong máu dưới 
nhiều dạng khác nhau : hoặc là ở dạng tự do có tính lây nhiễm rất cao nhưng chỉ 
hiện diên ở mật độ tương đối thấp ( khoảng 1,03 ) hoặc là ở dạng kết hợp với các 
đại phân tử đặc biệt là các lipoprotein hoặc hiện diện trong các phức hợp miễn 
dịch nhưng mật độ lại cao (khoảng 1,10). Thực nghiệm trên khỉ chimpanzee cho 
thấy tính lây nhiễm của HCV tự do cao hơn rõ rệt so với dạng kết hợp với các 
đại phân tử. Một điểm quan trọng nữa là virus này có khả năng biến thể nhanh và 
tạo thành rất nhiều type và sub-type kháng thuốc. 
 Chính vì khả năng biến thể quá nhanh này mà cho đến nay vẫn chưa có 
một loại vaccine nào có hiệu quả đối với HCV. 
 5
 Hình 1.1: Cấu trúc HCV 
1.2.2 Cấu trúc genome virus HCV 
 Genome của virus HVC là một cuỗi RNA có cực tính dương, được chia 
làm 3 phần. Bộ gene của virus có kích thước khoảng 9400 nucleotide (Hình 1.2). 
Hinh 1.2. Cấu trúc genome virus 
n Đầu 5’ không mã hoá (5’UTR-untranslated region hay 5’NCR = non-
coding region ) gồm 341 - 344 nucleotid. Đây là vùng tương đối ít bị biến đổi 
nhất giữa các phân týp (subtype) khác nhau. Do đó, người ta sử dụng vùng này 
như là một chất mồi (primer) để phát hiện RNA của virus HCV bằng phương 
pháp PCR. Chức năng của vùng này là tham gia vào việc điều hoà quá trình nhân 
 6
đôi của siêu vi. Tại đây, có một số cấu trúc uốn lượn (stem-loop structure ) gồm 
27 nucleotid, giữ vai trò ức chế quá trình giải mã (translation ) theo cơ chế điều 
hoà âm tính (negative regulation ). Vùng này còn là vị trí gắn kết với ribosome, 
được gọi là IRES (internal ribosome entry site ), để khởi phát quá trình giải mã 
cho việc tổng hợp chuỗi polyprotein tiền chất của siêu vi. 
o Vùng được mã hoá giữa 2 đầu 5’ và 3’. Vùng này chỉ có một khung 
đọc mở duy nhất (open reading frame) gồm 9.379 - 9481 nucleotid, được giải mã 
để tổng hợp một polyprotein tiền chất (precursor) của siêu vi gồm khoảng 3000 
acid amin. Sau đó, polyprotein này sẽ được các enzyme protease của siêu vi và 
các enzyme peptidase tín hiệu của tế bào (host signal peptidases), phân cắt thành 
các protein cấu trúc và protein không cấu trúc. 
- Protein cấu trúc : được tạo ra từ các gen C, E1 và E2 
*Protein capsid = protein C : mã hoá protein lõi, tạo nên phần nucleotid-capsid 
bao bọc bên ngoài chuỗi genom RNA của siêu vi . 
* Protein E1 và E2 (envelope): mã hoá protein vỏ, là hai glycoprotein của lớp vỏ, 
liên kết với nhau thành phức hợp dimer. 
 - Protein không cấu trúc 
* Protein NS2 là một enzyme Matallopproteinase, phân cắt polyprotein tiền chất 
tại chỗ nối NS2/NS3. 
* Protein NS3 (proteas/helicase ) các enzyme thuỷ giải và cắt đứt liên kết hydro. 
* Protein NS4 : (Gồm NS4 A VÀ NS 4B ) : NS4 A cần thiết cho hoạt tính của 
men protease NS3, NS4 B một protein liên kết với màng tế bào. 
* Protein NS5 (polymerase ) gồm NS5A và NS5B và NS5B là dùng để tổng hợp 
chuổi RNA từ khuôn mẫu là RNA. 
p Đầu 3’ không mã hoá (3’UTR hay 3’ NCR ) bao gồm 3 vùng : vùng 
đầu tiên có chiều dài thay đổi từ 28Æ 42 nucleotid, tiếp theo là vùng poly (U) 
hoặc poly (A) để báo hiệu kết thúc quá trình giải mã. Tận cùng là một đoạn X 
gồm 98 nucleotid. 
 7
 1.2.3 Cách thức tồn tại và khả năng gây bệnh 
 Đầu tiên, HCV gắn vào một receptor (thụ thể) chưa được xác định trên bề 
mặt tế bào gan nhờ hai glycoprotein bề mặt của nó là E1 và E2. HCV xâm nhập 
vào bên trong tế bào gan sau một quá trình hòa màng (membrane fusion). RNA 
mạch (+) của HCV được dịch mã thành protein nhờ hệ thống dịch mã của tế bào 
chủ. Protein tiền thể tạo ra sẽ được phân cắt bởi enzyme tín hiệu (signalase) để 
tạo ra các protein cấu trúc (C, E1, E2) và các protein không cấu trúc (NS1-NS5). 
Sau khi HCV đã tạo ra reverse transcriptase của nó thì enzyme này bắt đầu phiên 
mã ngược để tạo ra mạch RNA mạch (-) bổ sung với mạch (+) đã có. Chính 
mạch RNA (-) này là khuôn để tạo ra RNA genome của HCV((+) ssRNA). (Hình 
1.3 ) 
 Hình 1.3 Chu kỳ sống của HCV 
 8
 Sau đó, capsomer được tạo ra từ các protein thành phần như C, E1, E2 sẽ 
kết hợp với RNA genome của HCV ((+)ssRNA) để tạo thành dạng nucleocapsid. 
Nucleocapsid này tiến đến tương tác với màng tế bào để thoát ra ngoài, trở thành 
dạng virus hoàn chỉnh và đi xâm nhiễm một tế bào khác. 
1.3.Triệu chứng lâm sàng: [7], [21] 
 1.3.1- Giai đoạn cấp tính: 
 Bệnh nhân nhiễm HCV ở giai đoạn cấp tính thường không có biểu hiện 
bệnh lý hoặc chỉ có những biểu hiện bệnh nhẹ (rất khó quan sát bằng mắt 
thường). Khoảng 60-70% các bệnh nhân nhiễm không thể hiện triệu chứng, 20-
30% có thể có biểu hiện vàng da, 10% các bệnh nhân thể hiện một số triệu chứng 
không đặc hiệu như: mệt mỏi, đau bụng… 
 Triệu chứng biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân ở giai đoạn cấp tính HCV 
tương tự như các bệnh nhân nhiễm các virus gan gây bệnh ở gan khác. Do vậy, 
việc xét nghiệm các bệnh nhân này bằng các thử nghiệm miễn dịch là điều cần 
thiết để xác định bệnh nhân nhiễm loại virus Hepatitis nào. Tuy nhiên, các thử 
nghiệm miễn dịch này chỉ có kết quả tốt (80%) sau 15 tuần kể từ khi có những 
biểu hiện bệnh lý. Tỉ lệ trên tăng dần theo thời gian và tối đa là sau 9 tháng hầu 
như 100% các bệnh nhân nhiễm HCV đều có thể phát hiện virus bằng kỹ thuật 
miễn dịch. 
 Do nhược điểm về thời gian mà các kỹ thuật miễn dịch tỏ ra không có 
hiệu quả trong việc phát hiện sớm virus. Tuy nhiên, do các kỹ thuật phát hiện 
HCV bằng sinh học phân tử còn quá mắc tiền do vậy kỹ thuật miễn dịch vẫn 
được sử dụng phổ biến hiện nay tại các quốc gia đang phát triển. 
 1.3.2-Giai đoạn mãn tính: 
 Sau giai đoạn nhiễm cấp tính khoảng 15-25% bệnh nhân sẽ tự loại bỏ tất 
cả các virus HCV và cơ thể trở lại bình thường như khi chưa nhiễm virus. Tuy 
nhiên, khoảng hơn 75% các bệnh nhân nhiễm HCV sẽ chuyển sang giai đoan 
mãn tính. 
 9
 Hình 1.4. Các giai đoạn phát triển bệnh 
 Trong giai đoạn nhiễm mãn tính bệnh nhân thường không có bất kỳ một 
biểu hiện bệnh lý nào. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 20-30 năm hoặc có thể 
kéo dài hơn trước khi bệnh nhân chuyển thành ung thư gan. Vì thế người bệnh 
thường không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Nhiều trường hợp bệnh chỉ 
được phát hiện khi đã có biến chứng nghiêm trọng như : xơ gan với biểu hiện 
báng bụng (ổ bụng có nước), giãn mạch máu đường tiêu hóa, có thể vỡ gây chảy 
máu ồ ạt và tử vong. Một biến chứng nữa là ung thư tế bào gan. Khi đã xơ, gan 
khó hồi phục lại, cho dù tình trạng viêm có thuyên giảm. Vì vậy, các thầy thuốc 
khuyên nên điều trị sớm nhằm ngăn ngừa hoặc làm chậm tiến triển sang giai 
đoạn xơ gan. 
1.4. Chẩn đoán 
 Chẩn đoán viêm gan do siêu vi C, ngoài các xét nghiệm đánh giá chức 
năng gan, siêu âm gan ( nhằm nghiên cứu cấu trúc của gan và các bộ phận xung 
quanh, tìm dấu hiệu xơ gan hoặc biểu hiện bất thường), sinh thiết gan ( Xét 
nghiệm này cho phép các chuyên gia quan sát tế bào gan dưới kính hiển vi, xác 
định mức độ viêm nhiễm, chẩn đoán giai đoạn bệnh, đánh giá hiệu quả điều 
trị.)....thì các xét nghiệm tìm HCV giữ một vai trò rất quan trọng . 
 Anti-HCV: có thể tìm thấy ở 70% trường hợp khi bắt đầu có triệu chứng 
và khoảng 90% trong vòng 3 tháng sau. Tuy nhiên, nhiều người bị viêm gan C 
 10
nhưng không có triệu chứng. Anti-HCV không xác định được là đang nhiễm cấp 
tính, đã lành bệnh (đào thải hết virus) hay chuyển sang giai đoạn mãn tính. 
 HCV RNA : phát hiện trực tiếp siêu vi trong máu, một bằng chứng của 
nhiễm HCV và virus đang tăng sinh, đồng thời định danh dưới nhóm để lựa chọn 
phác đồ hợp lý. Có thể phát hiện HCV-RNA trong vòng 1 đến 2 tuần sau khi 
nhiễm virus. Xét nghiệm này còn được sử dụng để tiên lượng đáp ứng tốt với 
điều trị. 
1.5. Dịch tễ học: 
 Từ khi Choo Q.L phát hiện siêu vi gan viêm gan C năm 1989 đến nay, 
nhiều nghiên cứu dịch tễ học nhiễm siêu vi C đã được tiến hành để đánh giá tình 
trạng nhiễm siêu vi C trong cộng đồng, các đường lây nhiễm và diễn tiến các 
trường hợp bị lây nhiễm. 
 1.5.1 . Tình trạng nhiễm bệnh viêm gan siêu vi C: [1], [22] 
Tình hình trên thế giới: 
 Số người bị nhiễm viêm gan siêu vi C trên thế giới là khoảng 170 triệu 
người, trong đó khu vực Đông Nam Á chiếm tỷ lệ cao với khoảng 32,3 triệu 
(xem hình 1.5). Con số này cũng đã gia tăng trong những năm gần đây. Virus 
viêm gan siêu vi C được xem như là kẻ giết người thầm lặng vì bệnh nhân khi 
mắc phải virus này có thể không có các triệu chứng gì trong khoảng hơn 10 năm 
trước khi phát triển thành viêm gan mãn tính và ung thư gan. Khoảng 40-50% 
các trường hợp ghép gan ở Hoa kỳ là do nhiễm virus viêm gan C. Có 6 chủng 
virus viêm gan C được xác định (HCV1-6) và tùy thuộc vào chủng virus nhiễm 
mà các đáp ứng trị liệu cũng khác nhau. 
 11
 Hình 1.5. Tình hình nhiễm bệnh viêm gan siêu vi C trên thế giới năm 2002 (đơn vị 
tính: triệu người) 
Hình 1.6. Bản đồ phân bố tỷ lệ nhiễm HCV 
Tình hình trong nước: 
 Hiện nay, ở Việt Nam tỷ lệ nhiễm HCV chiếm từ 1-5% dân số. 
 1.5.2. Con đường lây bệnh và các biện pháp đề phòng và điều trị bệnh 
viên gan siêu vi C [1], [21] 
 1.5.2.1 Con đường lây bệnh 
 HCV lây lan bằng sự tiếp xúc trực tiếp qua máu. Đường truyền bệnh bao 
gồm việc dùng chung các vật dụng ma túy như kim chích, kim dùng để xâm 
mình, xỏ da và châm cứu cũng có thể truyền HCV. Dùng chung các vật dụng cá 
 12
nhân như dao cạo, bàn cải đánh răng, đồ cắt móng tay, tuy ít nguy cơ nhưng vẫn 
có thể làm lây nhiễm bệnh. 
 Một số ít có thể bị lây nhiễm HCV do sự quan hệ tình dục không an toàn. 
 Các nhân viên y tế cũng có nguy cơ nhiễm bệnh vì những tai nạn việc làm 
như bị kim đâm hoặc trong những trường hợp không thể tránh được có thể tiếp 
xúc trực tiếp với máu của người mang bệnh. 
 Những người mẹ bị HCV có thể truyền bệnh cho con vào lúc trước hoặc 
sau khi sinh. Sự lây truyền này tùy thuộc vào mức độ HCV có trong máu của 
người mẹ. 
 1.5.2.2. Các biện pháp phòng ngừa : 
 Cho đến nay vẫn chưa có thuốc chủng ngừa siêu vi viêm gan C. Ngay cả 
những hy vọng về một loại thuốc chủng ngừa cho căn bệnh này trong tương lai 
cũng chưa thấy hé mở. Vì 3 lý do sau: 
 + Thứ nhất: siêu vi C có khả năng biến hóa,nhưng đã nói ở phần 
1.2.1 cấu tạo HCV, chúng có khả năng thay đổi các đặc tính di truyền bằng cách 
thay thế những cấu trúc trên nhiễm sắc thể của mình. Điều này chẳng những gây 
khó khăn cho hệ thống miễn nhiễm trong việc phát hiện và đối phó với chúng, 
mà còn là nguyên nhân khiến cho việc tìm ra thuốc chủng ngừa bệnh này trở nên 
cực kỳ khó khăn. 
 + Thứ hai : do siêu vi C không “hoạt động” với bất cứ loài động vật 
nào khác ngoài con người và một loài tinh tinh (chimpanzee). Vì thế, việc nghiên 
cứu thử nghiệm rất khó khăn. 
 + Cuối cùng: Khả năng sao chép của siêu vi C trong điều kiện 
phòng thí nghiệm rất yếu ớt. 
 Vì thế, việc phòng ngừa bệnh viêm gan siêu vi C hiện nay chủ yếu là tập 
trung vào các biện pháp ngăn chặn từ đầu. 
 Như đã biết, siêu vi viêm gan C lây lan chủ yếu qua sự tiếp xúc trực tiếp 
với máu của người có bệnh, nên các biện pháp tiệt trùng và chăm sóc thích hợp 
 13
đối với các vết thương ngoài da như băng bó mọi vết cắt, vết thương sẽ giảm 
thiểu đáng kể nguy cơ nhiễm bệnh. 
 Tuyệt đối không dùng chung kim chích, các dụng cụ chích ma túy, vật 
dụng cá nhân hoặc bất cứ thứ gì có thể dính máu. Phải sát trùng đúng cách 
những dụng cụ dùng để xâm mình, xỏ da và châm cứu. 
 1.5.1.3 Điều trị: 
 Loại dược phẩm thường dùng để chống lại viêm gan C là interferon, một 
thuốc ức chế sự nhân lên của virus. Các thuốc interferon dùng để điều trị viêm 
gan gồm: interferon alfa-2b (Intron A), interferon alfa-2a (Roferon-A) và 
interferon alfacon-1 (Infegen). Nhưng interferon chỉ có tác dụng ở khoảng 20% 
số trường hợp. 
 Hiện nay, tiêm interferon thường được phối hợp với uống ribavirin-một 
thuốc kháng sinh virus phổ rộng. Điều trị thường mất sáu tháng đến một năm và 
thành công ở khoảng 40% số người bị HCV. 
 Gần đây, một thuốc khác, interferon pegyl hóa (PEG) có hiệu quả gấp hai 
lần interferon thông thường. Vào tháng 1-2001 Cơ quan quản lý thuốc và dược 
phẩm Mỹ (FDA) đã cho phép dùng PEG interferon-peginterferon alfa-2b (PEG-
Intron) để điều trị viêm gan. 
 Tùy theo loại genotype mà điều trị, tức là kiểu loại di truyền của siêu vi. 
Xét nghiệm này giúp cho bác sĩ điều trị xác định được là mình đang “đối mặt với 
ai” để có thể quyết định các phương thức điều trị. Thời gian điều trị bệnh viêm 
gan C sẽ tùy thuộc vào kết quả của cuộc thử máu này. Nếu genotype được xác 
định là loại số 1, bệnh nhân cần điều trị khoảng một năm. Nếu là loại số 2 hoặc 
3, thời gian sẽ là khoảng 6 tháng. Những loại khác có thể phải điều trị từ 6 đến 
12 tháng, tùy theo từng trường hợp. 
 14
Tên Thuốc Công ty Cơ chế tác động 
Có trên thị trường 
 PEG-Interferon-alpha 
(Pegasys®) 
 PEG-Interferron-alpha 2b 
(Peg-Intron®) 
Ribavirin 
 Interferon alpha-2a 
(Roferon-A ) 
 Interferon alpha-2b 
(Intron® A ) 
 Interferon 
Đang nghiên cứu 
Pha III 
Viramidine(Taribavirin) 
Interferon –Beta 
Zadaxin 
Pha II 
VX-950 
Valoppicitabine (NM283) 
SCH503034 
Albuferon 
Suvus (Methylene blue) 
Omega interferon 
Multiferon 
Actilon (CPG 10101) 
Roche 
Schering-Plough 
Copegas®(Roche),Rebetol® 
 ( Schering Plough), Ribaphere®, 
Vilona®,Virazole® 
Roche 
 Schering-Plough 
Các hãng thuốc và dạng thuốc generic 
khác 
Valeant Pharma 
Serono 
SciClone 
Certex 
Indenix/Novartis 
Schering-Plough 
Human Genome Sciences/Novartis 
Bioenvision 
Intarcia Therapeutics 
Viragen/Valentis 
Coley 
 Interferron tác động kéo dài 
 Interferon tác động kéo dài 
 Nucleosid ức chế polymerase 
Hiệp lực với interferon 
Interferron điều trị viêm gan siêu vi B 
và một số dạng C 
Nucleosid ức chế polymerase 
 Tiến dược của ribavirin 
 Interveron-Beta 1a,tác nhân miễn 
dịch 
 Ức chế NS3 serine protease 
 Nucleosid ức chế polymerase 
 Ức chế NS3 serine protease 
 Interferon-alpha gắn kết với albumin) 
 Xanh methylen 
 Tác nhân miễn dịch 
 Interferon tác động kéo dài,đã sử 
dụng ở một số quốc gia,ngoại trừ Hoà 
Kỳ và chau âu 
Chủ vận TLR9 ( Tác nhận miễn dịch) 
Bàng 1.1: Các thuốc trên thị trường dùng điều trị viêm gan C và các 
thuốc có triển vọng [22] 
 15
1.6. Định lượng RNA-H