Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 
362 
_______ 
Quy trình thử nghiệm dự báo trường dòng chảy, độ muối, 
nhiệt độ và mực nước tổng cộng cho khu vực Biển Đông 
bằng mô hình ROMS 
Nguyễn Minh Huấn1,*, Phạm Văn Sỹ2, Dương Hồng Sơn2
1Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
2Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường 
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010 
Tóm tắt. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế biển và các hoạt động an ninh quốc phòng đảm 
bảo chủ quyền trên biển đã đặt ra những vấn đề khoa học cấp thiết cần giải quyết đối với việc cung 
cấp thông tin dự báo trường các yếu tố khí tượng thủy văn biển. 
Trên thực tế, các yếu tố hải văn biển như dòng chảy, nhiệt độ và độ muối và mực nước tổng 
cộng là những yếu tố quan trọng cần thiết đáp ứng yêu cầu của các hoạt động kinh tế, an ninh quốc 
phòng và nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã xây dựng quy trình dự báo hạn ngắn 
trường dòng chảy, nhiệt độ và độ muối bằng mô hình ROMS cho toàn bộ khu vực Biển Đông. 
Mở đầu∗
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế biển 
và các hoạt động an ninh quốc phòng đảm bảo 
chủ quyền trên biển đã đặt ra những vấn đề 
khoa học cấp thiết cần giải quyết đối với việc 
cung cấp thông tin dự báo trường các yếu tố khí 
tượng thủy văn biển. Trong điều kiện nước ta 
hiện nay, để có được các thông tin dự báo hạn 
ngắn các trường yếu tố thủy văn biển có thể tiến 
hành theo hai phương thức: Xây dựng hệ thống 
thu nhận thông tin các trường khí tượng thủy 
văn dự báo của các nước trên thế giới và khu 
vực; Xây dựng, phát triển và ứng dụng hệ thống 
các mô hình dự báo các trường khí tượng - thủy 
văn biển. Theo phương thức thứ hai chúng ta sẽ 
có được tính chủ động cao trong công tác dự 
báo, các thông tin kết quả của hệ thống dự báo 
nhận được sẽ đầy đủ, chi tiết và chính xác kịp 
thời đáp ứng được yêu cầu của các hoạt động 
kinh tế, an ninh quốc phòng và nghiên cứu. 
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943. 
 E-mail: 
[email protected] 
Trong các thông tin dự báo về các yếu tố 
thủy văn biển trường dòng chảy, nhiệt độ và độ 
muối là các yếu tố quan trọng. Thông tin về 
dòng chảy biển phục vụ trực tiếp cho công tác 
hàng hải, tìm kiếm cứu nạn cứu hộ, dự báo lan 
truyền ô nhiễm, thông tin về nhiệt độ và độ 
muối góp phần vào việc xác định, dự báo ngư 
trường đánh bắt cá. Trong nghiên cứu này, 
nhóm tác giả đã xây dựng quy trình dự báo hạn 
ngắn trường dòng chảy, nhiệt độ và độ muối 
bằng mô hình ROMS cho toàn bộ khu vực Biển 
Đông. 
N.M. Huấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 363
1. Mô hình ROMS 3.0 
ROMS là mô hình hoàn lưu đại dương, sử 
dụng hệ phương trình nguyên thủy (primitive). 
Là mô hình mã nguồn mở nên ROMS mang 
tính cộng đồng rất cao, được rất nhiều các nhà 
nghiên cứu sử dụng với nhiều qui mô không 
gian và thời gian khác nhau: từ dải ven bờ tới 
các đại dương thế giới; mô phỏng, dự báo cho 
vài ngày, vài tháng và thậm chí tới hàng chục 
năm. ROMS được xây dựng trên cơ sở các 
nghiên cứu số trị bậc cao cùng với kỹ thuật tiên 
tiến cho phép triển khai một cách có hiệu quả 
các tính toán có độ phân giải cao. Mô hình giải 
các phương trình thuỷ động lực thuỷ tĩnh và bề 
mặt tự do cho các địa hình phức tạp trên hệ lưới 
cong trực giao theo phương ngang và thích ứng 
địa hình theo phương thẳng đứng [4]. 
1.1. Hệ toạ độ thích ứng địa hình theo phương 
thẳng đứng 
Hệ toạ độ thích ứng địa hình theo phương 
thẳng đứng (lưới σ hoặc s) xấp xỉ địa hình đáy 
biển và bề mặt tự do nhằm mục đích mô phỏng 
các quá trình rối gần các bề mặt chất lỏng cũng 
như các quá trình động lực vùng cửa sông ven 
biển, mô phỏng trung thực hơn ảnh hưởng của 
địa hình tới dòng chảy so với các mô hình sai 
phân thông thường. Tuy nhiên, hệ toạ độ này 
cũng có một số nhược điểm nhất định, gây ra 
sai số số học trong quá trình tính građien áp 
suất tại các vị trí có độ dốc lớn, nhược điểm 
này cũng đã được quan tâm trong nhiều năm 
qua. Mặc dù các sai số này không thể loại bỏ 
được hoàn toàn, nhưng có thể được giảm tới 
mức có thể chấp nhận được qua phương pháp 
tái tạo parabolic của Shchepetkin và 
McWiliams, 2005 [2]. 
Hệ toạ độ thích ứng địa hình tổng quát có 
dạng: 
 ( )( )⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛
+
−=
t,y,x)y,x(H
t,y,xzss ς
ς 01 ≤≤− s (1) 
trong đó H là độ sâu, ζ là cao độ mực nước bề 
mặt. Trong trường hợp s phụ thuộc tuyến tính 
vào z, phép chuyển toạ độ trên sẽ trở thành hệ 
toạ độ σ truyền thống. Các phép chuyển hệ toạ 
độ này sẽ tạo ra hệ thống lưới không trực giao, 
tuy nhiên tỷ số giữa kích thước lưới theo 
phương ngang và phương thẳng đứng thường 
được giả thiết là rất lớn do vậy có thể bỏ qua 
một số các số hạng liên quan tới hệ toạ độ cong 
và phép chuyển toạ độ có thể được đơn giản 
hoá thành: 
zx
z
xx z ∂
∂
∂
∂−∂
∂=∂
∂ .
σσ 
Mối phụ thuộc không tuyến tính (1) cho 
phép tăng cường độ phân giải của lưới tính vào 
những miền có tính bất đồng nhất mạnh. Nhằm 
mô phỏng tốt các quá trình động lực trong lớp 
xáo trộn cũng như lớp thermocline, mô hình 
ROMS sử dụng phép chuyển toạ độ dưới đây 
(Haidvogel và nnk, 2000): 
( ) (sChhshz ss − )+= (2) 
trong đó hs là độ sâu đặc trưng của lớp xáo trộn 
và: 
( ) ( ) ( )( )
( )[ ] ( )
( )2/tanh2
2/tanh2/1tanh
sinh
sinh1 θ
θθθθ
θθ −++−= sssC bb
 (3) 
trong đó θ, θb là các các tham số không thứ 
nguyên kiểm soát độ co giãn của lưới theo 
phương thẳng đứng: độ phân giải tại bề mặt tỉ lệ 
thuận với giá trị θ và tại đáy tăng lên khi θ b 
tiến dần đến 1. Ưu điểm của phép giãn trục toạ 
độ (2) và (3) là cho phép tăng độ phân giải tuỳ 
ý tại những nơi độ sâu lớn (tăng độ phân giải 
trong lớp nhảy vọt nhiệt độ, và lớp tà nhiệt) 
trong khi duy trì độ phân giải tương đối đều tại 
vùng nước nông. 
N.M. Huấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 364
1.2. Hệ toạ độ cong trực giao theo phương 
ngang 
Hệ toạ độ tính toán ξ,η là vuông góc và các 
biên của miền tính trùng với các đường đẳng 
ξ,η . Khi hàm ánh xạ được xác định thì các hệ 
số đo cũng được xác định. Các hệ số đo m và n 
của hệ toạ độ cong trực giao liên kết các khoảng 
cách sai phân theo hướng ξ,η với các cung thực 
tế như sau: 
( )
m
ds ξξ ∂=
( )
n
ds ηη ∂=
 (4) 
do vậy, đoạn ds phải thoả mãn: 
2
2
2
2
2
nm
ds ηξ ∂+∂=
 (5) 
hay trong toạ độ Đề các: 
( ) (
( ) ( ) ( ) ηξηξ
ηξηξ
ηξηξηηξξ
ηξηξ
ddyyxxdyxdyx
dydydxdxdydxds
+++++=
+++=+=
2222222
22222 )
 (6) 
Với thành phần cuối cùng ở phương trình 
trên bằng 0 trong hệ toạ độ trực giao, phép thế 
hai phương trình trên dẫn đến (Wilkin and 
Hedstrom, 1998): 
( )
( ) 2/122
2/122
−
−
+=
+=
ηη
ξξ
yxn
yxm
 (7) 
1.3. Hệ phương trình thuỷ động lực 
Phương trình trạng thái ( )PTS ,,ρρ = và 
giả thiết thuỷ tĩnh 
g
z
P ρ=∂
∂
Phương trình chuyển động 
( )uuzzz
zzzz
DF
mn
HgzgP
n
HvH
m
u
n
v
mn
f
mn
uH
sm
uvH
n
uH
mn
uH
t
++⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛
∂
∂+∂
∂+∂
∂−=⎭⎬
⎫
⎩⎨
⎧ ⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂−⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛−
⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛ Ω
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂
ξ
ς
ξρ
ρ
ξηξ
ηξ
0
2
11
(8) 
( )vvzzz
zzzz
DF
mn
HgzgP
m
HuH
m
u
n
v
mn
f
mn
vH
sm
vH
n
uvH
mn
vH
t
++⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛
∂
∂+∂
∂+∂
∂−=⎭⎬
⎫
⎩⎨
⎧ ⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂−⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛+
⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛ Ω
∂
∂+⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂
η
ς
ηρ
ρ
ηηξ
ηξ
0
2
11
(9) 
Phương trình bảo toàn nhiệt độ và độ muối 
( )TTzzzzz DFmn
H
mn
TH
sm
vTH
n
uTH
mn
TH
t
+=⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛ Ω
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂
ηξ
 (10) 
( )SSzzzzz DFmn
H
mn
SH
sm
vSH
n
uSH
mn
SH
t
+=⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛ Ω
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂+⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛
∂
∂
ηξ
 (11) 
trong đó Du, Dv, DS, DT là các thành phần nhớt 
và khuếch tán rối đối với các biến động lượng 
và nhiệt muối; Fu, Fv, FS, FT là các thành phần 
ngoại lực và nguồn. 
( ) ( ) ⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡
∂
∂−∂
∂−∂
∂+−=∂
∂=Ω ηξηξ
znvzmu
t
ssw
Ht
sts
z
11,,, 
(12) 
( ) ( ) ξξ
ς
ξ ∂
∂+∂
∂+=∂
∂ hsCsz 1 (13) 
( ) ( ) ηη
ς
η ∂
∂+∂
∂+=∂
∂ hsCsz 1 (14) 
Với giả thiết áp suất thuỷ tĩnh cho phép tính 
được thành phần vận tốc theo phương thẳng 
đứng từ phương trình liên tục do đó các mô 
hình loại này đôi khi còn được gọi là “tựa ba 
chiều”, để phân biệt với các mô hình sử dụng 
đầy đủ cả ba phương trình động lượng. 
1.4. Sai phân hoá 
Sai phân theo không gian 
Sai phân trung tâm bậc hai trên lưới 
Arakawa C áp dụng cho phương ngang (ξ,η) 
với các điều kiện biên trượt tự do (toàn phần), 
trượt một phần, hoặc điều kiện dính. Theo 
phương thẳng đứng (trục s) sử dụng sai phân 
xen kẽ bậc hai. 
N.M. Huấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 365
Cũng như các mô hình khác, tuy đã sử dụng 
phương pháp giảm thiểu sai số gây ra bởi thành 
phần gradient áp suất, ROMS sử dụng kỹ thuật 
là trơn địa hình đáy để tăng độ ổn định của mô 
hình như sau: 
 2/12/1
2/12/1
2 ++
−+
+
−=∆=
HH
hh
h
hr
 (15) 
Vì độ dày của các lớp nước thường nhỏ hơn 
rất nhiều so với bước tính theo phương ngang 
nên bước thời gian thường bị giới hạn bởi điều 
kiện ổn định theo phương thẳng đứng 
(Vreugdenhill 1994), ∆ t < ∆ z2/4Nv, hơn là 
theo phương nằm ngang (chỉ tiêu Courant-
Friedrichs-Levy). 
Sai phân theo thời gian 
Do vậy, có hai cách sử dụng mô hình, 
phương pháp thứ nhất là giải phương trình 
chuyển động để tính vận tốc ngang, sau đó tích 
phân phương trình liên tục từ mặt tới đáy để 
tính thành phần vận tốc thẳng đứng và áp dụng 
điều kiện biên động học tại mặt nước để tính sự 
thay đổi của mực nước. Phương pháp thứ hai 
hay kỹ thuật tách thời gian được sử dụng rộng 
rãi trong các mô hình hoàn lưu đại dương nhằm 
phân tách các sóng chính áp có tốc độ chuyển 
động nhanh mà vẫn tiết kiệm thời gian tính: 
Chế độ chính áp: giải hệ phương trình động 
lượng hai chiều “trung bình theo độ sâu” với 
bước thời gian ngắn, thoả mãn điều kiện 
Courant-Friedrichs-Levy 
Chế độ tà áp: giải hệ phương trình động 
lượng ba chiều với bước thời gian tương đối 
dài. 
Tuy nhiên, sai số khác nhau giữa hai hệ 
phương trình này đòi hỏi các phương pháp điều 
chỉnh sao cho chúng cùng thỏa mãn phương 
trình liên tục và bảo toàn các đại lượng vô 
hướng. 
2. Quy trình dự báo 
Quy trình dự báo trường dòng chảy, nhiệt 
độ, độ muối được viết trên mã nguồn mở 
(UNIX) kết hợp với ngôn ngữ lập trình 
MATLAB, cho phép thực hiện dự báo nghiệp 
vụ tự động, đạt hiệu quả cao (Hình 1). 
Quy trình dự báo được chia làm 3 giai đoạn: 
1. Giai đoạn tiền xử lý: 
Download số liệu khí tượng, điều kiện ban 
đầu và điều kiện biên… từ nguồn số liệu ECCO 
dự báo đến 10 ngày. 
Nội suy các yếu tố về miền lưới tính toán 
Kiểm tra và xử lý lại kết quả đầu vào 
2. Giai đoạn chạy mô hình 
Chạy mô hình ROMS với các thông số và 
số liệu đã được ấn định 
3. Giai đoạn xử lý kết quả 
Trích xuất các yếu tố (dòng chảy, nhiệt độ, 
độ muối) để tạo thành các file có dung lượng 
nhỏ dạng netcdf 
Thể hiện các trường dòng chảy, nhiệt độ, độ 
muối dưới dạng ảnh và định dạng kml (định 
dạng hiển thị trên google earth hay google map) 
Xuất các yếu tố (dạng file netcdf, dạng ảnh 
và kml) lên bản tin dự báo biển 
www.dubaobien.vn). 
Hình 1. Sơ đồ quy trình dự báo dòng chảy, nhiệt 
độ, độ muốivà mực nước tổng cộng bằng mô hình 
ROMS cho khu vực Biển Đông. 
N.M. Huấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 366
Quy trình dự báo được thực hiện chạy tự 
động thông một file script viết bằng trình thông 
lệnh shell trên hệ điều hành Linux. Một số công 
đoạn của quy trình đã được cải tiến nhằm phù 
hợp với các điều kiện của Việt Nam bởi Trung 
tâm Nghiên cứu Môi trường, Viện Khoa học 
Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường và Trường 
Đại học Khoa học Tự nhiên trong khuôn khổ 
của đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu phát 
triển và ứng dụng công nghệ dự báo hạn ngắn 
trường các yếu tố thủy văn biển khu vực Biển 
Đông” mã số KC.09.16/06-10. 
Các kết quả đáng tin cậy của mô hình dự 
báo đã được hoàn toàn khẳng định trong [1] nên 
trong bài báo này không trình bày lại các phần 
hiệu chỉnh và kiểm nghiệm mô hình. 
3. Các điều kiện đầu vào của mô hình 
3.1. Miền dự báo 
Địa hình đáy biển được nội suy từ số liệu 
địa hình đáy biển toàn cầu ETOPO-2 có độ 
phân giải 2’ (khoảng 4km). Độ sâu lớn nhất của 
miền tính khoảng 4500 m và độ sâu nhỏ nhất 
được giới hạn bằng 10 m và được chia thành 12 
lớp theo phưong thẳng đứng. Độ sâu nhỏ nhất 
được giới hạn bằng 10 m nhằm tăng bước thời 
gian giới hạn bởi hiệu ứng khuyếch tán rối theo 
phương thẳng đứng ∆ t < ∆ z2/4Nv, quá trình 
này chủ yếu xảy ra ở vùng nước nông gần bờ 
(Vreugdenhill 1994).Với kính thước bước lưới 
như trên, bước thời gian cho chế độ barocline là 
1800 giây, và barotrop là 60 giây (Hình 2). 
3.2. Điều kiện ban đầu, điều kiện biên và ngoại 
lực 
Số liệu đầu vào dự báo 10 ngày được cung 
cấp từ mô hình hoàn lưu toàn cầu và số liệu 
quan trắc của ECCO (dự án “Dự báo Hoàn lưu 
và Khí tượng Đại dương”) do cơ quan Nghiên 
cứu Hải quân, Mỹ (ONR) cùng với rất nhiều 
các tổ chức, cơ quan (NOAA, NASA…) đồng 
thực hiện. 
Hình 2. Bản đồ địa hình khu vực Biển Đông 
Hình 3. Phân bố theo phương ngang và thẳng đứng 
của trường nhiệt độ nước biển trên Biển Đông. 
N.M. Huấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 367
Lưu lượng của các sông lớn được lấy trung 
bình cho hai mùa chính (mùa khô và mùa mưa): 
Lưu lượng nước sông Mê Kông dao động 
trong khoảng 37000 m3/s (tháng I) - 148000 
m3/s (tháng VIII) và đổ ra biển tại hai cửa có toạ 
độ (9.421oN;106.289oE) và (10.171oN;106.80oE) 
Lưu lượng nước sông Hồng dao động trong 
khoảng 3700 m3/s (tháng I) - 10000 m3/s (tháng 
VIII) và đổ ra biển tại hai cửa có toạ độ 
(20.385oN;106.643oE) và (20.654oN;106.914oE) 
Trên cả hai hệ thống sông nhiệt độ dao 
động trong khoảng 20oC-25oC và độ muối luôn 
bằng 0 %0. 
Hình 4. Đẳng biên độ và đẳng pha sóng M2. 
Các tham số của 6 sóng thuỷ triều, M2, S2, 
N2, K2, K1, O1, được đưa vào các biên lỏng 
của miền nghiên cứu. Các tham số này được lấy 
từ mô hình thuỷ triều toàn cầu TPXO có độ 
phân giải 1/4 độ kinh vĩ. Mô hình này sử dụng 
phương pháp bình phương tối thiểu để xấp xỉ 
phương trình thuỷ triều Laplace với số liệu cao 
độ bề mặt biển thu được dọc theo 324 quỹ đạo 
của vệ tinh TOPEX/Poseidon 
4. Xuất bản tin dự báo 
4.1. File dữ liệu 
Để thuận tiện cho người dùng khi download 
số liệu cũng như làm giảm dung lượng của file, 
các file đầu ra được trích xuất cho riêng các yếu 
tố: dòng chảy, nhiệt độ và độ muối trong khu 
vực tính toán dưới định dạng netcdf (Hình 5). 
Số liệu sau khi dowload, có thể sử dụng các 
phần mềm hỗ trợ như ncbrowser để chuyển đổi 
sang định dạng ASCII theo khu vực phù hợp 
với yêu cầu của người sử dụng. 
Hình 5. Giao diện download số liệu dự báo của các 
yếu tố dòng chảy, nhiệt độ, độ muối và mực nước 
tổng cộng khu vực Biển Đông. 
4.2. Định dạng ảnh 
Hình ảnh bản đồ phân bố các yếu tố: dòng 
chảy, nhiệt độ và độ muối cho toàn khu vực 
Biển Đông được chia thành 9 vùng nhỏ. Người 
truy cập có thể phóng to các vùng bằng cách 
kích con trỏ chuột lên từng khu vực (Hình 6). 
N.M. Huấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 368
Hình 6. Bản đồ dự báo phân bố trường vectơ dòng 
chảy trên nền trường độ muối định dạng ảnh khu 
vực Biển Đông và các vùng lựa chọn. 
4.3. Định dạng kml – Google earth 
Kết quả cũng có thể được thể hiện trên 
Google earth và Google map bằng các file định 
dạng klm để người dùng có thể sử dụng khả 
năng có sẵn của Google earth và Google map 
phóng to, thu nhỏ tuỳ ý các khu vực quan tâm . 
Hình 7. Bản đồ dự báo phân bố trường dòng chảy 
trên nền trường độ muối với định dạng kml khu vực 
Biển Đông. 
Kết luận 
Quy trình dự báo trường dòng chảy, nhiệt 
độ, độ muối và mực nước tổng cộng được xây 
dựng trên cơ sở kế thừa các kết quả của cơ quan 
Nghiên cứu Hải quân Mỹ (ONR) kết hợp với 
các tổ chức, cơ quan khác như NOAA, 
NASA…, là một quy trình khép kín được thực 
thi tự động với nhiều các công đoạn phức tạp: 
download số liệu dự báo toàn cầu, xử lý số liệu, 
thực hiện chạy mô hình dự báo, xử lý kết quả 
và xuất bản tin dự báo. 
Kết quả của quy trình cho phép nhận được 
thông tin dự báo toàn cảnh chi tiết trước nhiều 
ngày về trường dòng chảy, nhiệt độ, độ muối và 
mực nước tổng cộng cho khu vực Biển Đông, 
các thông tin của hệ thống dự báo sẽ được cung 
cấp đầy đủ, chi tiết và chính xác kịp thời đáp 
ứng được yêu cầu của các hoạt động kinh tế, 
hàng hải, tìm kiếm cứu nạn cứu hộ, an ninh 
quốc phòng và nghiên cứu. 
N.M. Huấn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 362‐369 369
Tài liệu tham khảo 
[1] Dương Hồng Sơn, Nguyễn Tài Hợi, “Dự báo 
hạn ngắn trường dòng chảy và nhiệt độ Biển 
Đông”, Đề tài Xây dựng mô hình dự báo các 
trường khí tượng thuỷ văn vùng Biển Đông – 
KC.09.04. 
[2] A.F. Shchepetkin, J.C. McWiliams, The regional 
oceanic modeling system (ROMS): a split-
explicit, free-surface, topography-following-
coordinate oceanic model. Ocean Model 9 
(2005) 347-404. 
[3]  
[4]  
Experimental forecast system for current, salinity, temperature 
and water level fields in the South China Sea 
 Nguyen Minh Huan1, Pham Van Sy2, Duong Hong Son2
1Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU, 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
2Institute of Hydrology Meteorology and Environment 
The rapid development of marine economy and national defense and security activities to ensure 
maritime sovereignty posed scientific problem solving urgent need for providing forecast 
meteorological and oceanographical information in the sea. In the country's current conditions, to 
obtain the short-term forecasts of oceanographical factors in the sea can proceed in two ways: first 
approach is build a system receiving information of meteorology and oceanography forecast from 
countries and regions worldwide, second one is development and application of system models to 
forecast the marine weather and hydrodynamics. By the second approach, we would have highly sense 
in initiative in the marine forecast, the forecasting system will give full and accurate information and 
timely to meet the requirements of economic , security, defense and research activities. 
In the fact, oceanographical factors in sea such as currents, temperature, salinity and water level 
are important ones, information about flows, water level and waves directly serve for high seas 
navigation, the maritime search and rescue works, spreading pollution forecasting, information about 
temperature and salinity contribute to the identification, forecasting fishing grounds. In this study, the 
authors developed a short-term forecasting system for flows field, temperature, salinity and water level 
by Regional Ocean Model System (ROMS) for the South China Sea.