Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã hội quan tâm. Nếu vấn đề giải phóng phụ nữ và vấn đề cơ bản nhất trong các vấn đề đấu tranh của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ lại được xem là nội dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Sự bình đẳng nam- nữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Trong lĩnh vực giáo dục, vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa sâu sắc.
Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của cn. Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim từng nói: “Giáo dục có chức năng xã hội hóa cá nhân, giáo dục giúp cho các thế hệ trẻ được chuẩn bị để bước vào cuộc sống xã hội, giáo dục có chức năng củng cố sự đoàn kết xã hội và duy trì trật tự xã hội.
Nghiên cứu bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục là một việc làm cần thiết trong xã hội hiện nay, nhằm mục đích tìm ra các biện pháp nâng cao bình đẳng giới trong giáo dục và trong xã hội. Với tư cách là một bộ phận của xã hội, sự nghiệp phát triển giáo dục hiện nay không thể không tính đến vấn đề giới.
20 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3396 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quyền bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực giáo dục – Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
I. Một số khái niệm 3
1.1. Giới 3
1.2. Bình đẳng xã hội 3
1.3. Bình đẳng giới 3
II. Thực trạng về bất bình đẳng giới trong giáo dục 4
2.1. Trên thế giới 4
2.2. Ở Việt Nam 5
3. Những hệ quả của bất bình đẳng giới trong giáo dục 8
4. Một số nguyên nhân 9
III. Một số giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam 10
KẾT LUẬN 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã hội quan tâm. Nếu vấn đề giải phóng phụ nữ và vấn đề cơ bản nhất trong các vấn đề đấu tranh của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ lại được xem là nội dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Sự bình đẳng nam- nữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Trong lĩnh vực giáo dục, vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa sâu sắc.
Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của cn. Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim từng nói: “Giáo dục có chức năng xã hội hóa cá nhân, giáo dục giúp cho các thế hệ trẻ được chuẩn bị để bước vào cuộc sống xã hội, giáo dục có chức năng củng cố sự đoàn kết xã hội và duy trì trật tự xã hội.
Nghiên cứu bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục là một việc làm cần thiết trong xã hội hiện nay, nhằm mục đích tìm ra các biện pháp nâng cao bình đẳng giới trong giáo dục và trong xã hội. Với tư cách là một bộ phận của xã hội, sự nghiệp phát triển giáo dục hiện nay không thể không tính đến vấn đề giới.
Chính vì lý do trên em chon đề tài “ Quyền bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực giáo dục – thực trạng và giải pháp” kết thúc học phần môn Các ngành luật cơ bản trong hệ thống giáo dục Việt Nam.
Em xin đi sâu vào nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng này.
2. Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận.
Hiện nay, có rất nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về vấn đề này, song trong các nghiên cứu của các tác giả chưa đi sâu vào nguyên nhân dẫn đến tinh trạng bất bình đẳng giới giữa phụ nũ và nam giới trong lĩnh vực giáo dục và giải pháp khắc phục vấn đề này.
3. Mục tiêu tiểu luận.
Làm rõ một số khái niêm về giới, bình đẳng xã hội và bình đẳng giới, từ đó đi sâu vào nguyên dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục ở nước ta hiện nay nhằm đưa ra một số giải pháp góp phần làm giảm tình trạng trên ở việt nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận sử dụng một số phương pháp như: phương pháp điều tra xã hội học, nghiên cứu tài liệu và quan sát thực tế.
5. Pham vi nghiên cứu.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về quyền bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam trong nhưng năm gần đây.
6. Kết cấu tiểu luận.
Nội dung tiểu luận chia làm 3 phần:
Chương I: Một số khái niệm.
Chương II: Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục.
Chương III. Một số giải pháp về bất bình đẳng giới trong giáo dục.
NỘI DUNG.
I. Một số khái niệm.
1.1. Giới
“Giới (gender): là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định chon am và nữ nhìn từ góc độ xã hội; giới đề cập đến sự phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể”
Đặc trưng cơ bản nhất của giới là do dạy và học mà có, Vì vậy, những đặc trưng về giới mang tính xã hội, do xã hội quy định. Giới thể hiện các đặc trưng của xã hội của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, các khu vực, các giai tầng xã hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi được.
1.2. Bình đẳng xã hội.
“Bình đẳng xã hội: là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các định kiến, các cơ hội và các quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân, các nhóm xã hội”. Trên lý thuyết, bất bình đẳng xã hội có nghĩa là không bằng nhau, không ngang nhau về các khía cạnh cơ bản của đời sống xã hội giữa các cá nhân, các nhóm người. Trên thực tế, khái niệm bất bình đẳng xã hội được dùng chủ yếu để chỉ mối tương quan xã hội nào không ngang bằng nhau đến mức gây tổn hại đén quyền và lợi ích của bên yếu thế.
1.3. Bình đẳng giới
“Là một cách tiếp cận giải quyết các vấn đề đang đối diện với cả nam và nữ theo cách chia sẻ các lợi ích của phát triển một cách bình đẳng, bảo đảm chóng lại gánh nặng thiên lệch của những tác động tiêu cực”
Trong đó, nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau về:
Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng
Các cơ hội tham gia đóng góp và hưởng lợi từ các nguồn lực xã hội và quá trình phát triển.
Quyền tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng.
Được hưởng thành quả bình đẳng trong mội lĩnh vực của xã hội.
II. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục.
2.1. Trên thế giới
Theo một báo cáo của UNICEF, vào tháng 12 năm 2006, nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày thành lập của tổ chức này, việc loại bỏ sự phân biệt đối xử vè giới và nâng cao vị thế của phụ nữ sẽ tạo ra một sự tác động sâu sắc và tích cực đến sự sống còn và phát triển của trẻ em. Bà Ann M. Veneman – Giám đốc điều hành UNICEF phát biểu: “Khi vị thế của người phụ nữ được nâng lên để có một cuộc sống đầy đủ và hữu ích, trẻ em và giáo dục họ sẽ trở nên thịnh vượng”. Theo báo cáo này, mặc dù trong những thập kỉ gần đây đã có một số tiến biij về vị thế của phụ nữ nhưng cuộc sống của hàng triệu “trẻ em gái và phụ nữ vẫn bị đe dọa bởi sự phân biệt đối xử, việc bị tước quyền và nghèo khổ. Hậu quả của sự phân biệt đối xử là trẻ em gái ít có cơ hội được học hơn. Ở các nước đang phát triển, gần như 1/100 trẻ em gái đi học ở trường tiểu học sẽ không theo học được hết cấp. Trình độ học vấn, theo báo cáo, tương quan đến sự cải thiện về các nguồn lực đầu tự cho sự sống còn và phát triển của trẻ em.
Sự phân biệt giới trong lĩnh vực giáo dục thường diễn ra gay gắt nhất trong nhóm nước nghèo. Một nghiên cứu gần đây về tỉ lệ đến trường của các bé gái và bé trai ở 41 quốc gia đã cho thấy, trong những nước này, sự pp về giới trong tỉ lệ đến trường giữa nhóm nghèo thường lớn hơn giữa những nhóm không nghèo. Tuy sự bình đẳng trong giáo dục đã có sự cải thiện rõ rệt trong vòng 30 năm qua ở các nước ngày nay còn phụ thuộc diện thu nhập thấp, nhưng sự chênh lệch về số nam và nữ đến trường ở những nước này vẫn lớn hơn ở các nước có thu nhập trung bình và cao. Mặc dù giữa phát triển kinh tế và bình đẳng giới có mqh nhất định, sự hiện diện của phụ nữ trong thu nhập quốc nội vẫn còn khiêm tốn.
2.2. Tại Việt Nam
Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp. Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có bốn loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước.
Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc biệt là vai trò của giáo dục đối với xã hội, ngành Giáo dục & Đào tạo đã thực hiện tương đối tốt vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành, giới nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo nước nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo như Đại học Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận chức danh Phó Giáo sư. Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định vai trò của giới mình bằng cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết quả xuất sắc. Trong các kỳ tuyển sinh vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh nữ. Còn trong các kỳ thi tốt nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với thành tích xuất sắc: thủ khoa.Đối với ngành Giáo dục & Đào tạo quận Ngũ Hành Sơn, nữ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên đã đóng góp công lớn trong sự nghiệp giáo dục của quận nhà. Trong những năm qua có bốn nữ cán bộ quản lý được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng bằng khen, nhiều chị được UBND thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố tặng bằng khen, giấy khen. Nữ cán bộ quản lý trong các trường học chiếm tỉ lệ cao: 80%, có trường Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng hoàn toàn là nữ. Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo có 1/3 là nữ.
Về tồn tại:
Tuy nhiên, thực chất bình đẳng giới trong Giáo dục và Đào tạo còn nhiều vấn đề cần xem xét. Về khách quan, việc nhìn nhận vai trò của nữ giáo viên chưa đúng, nhiều Hiệu trưởng không muốn nhận giáo viên là nữ vì sợ liên quan đến chế độ nghỉ sinh nở, con đau ốm ảnh hưởng đến việc giảng dạy, hoặc khi đề bạt, cử đi học còn e dè trong việc chọn nữ giáo viên. Trẻ em gái ít cơ hội được đến trường so với nam giới. Nếu tính trung bình cho tất cả các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn 29% so với nam giới, số năm đến trường trung bình thấp hơn 45% so với nam giới và tỷ lệ nhập học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của nữ thấp hơn tương ứng là 9%, 28% và 49% so với nam.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tự quan trọng về bình đẳng giới. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra chọn mẫu của Ngân hành Thế giới, năm 1997 – 1998, tỉ lệ dân số nữ từ 15 tuổi trở lên chưa đến trường là 13,4%, nhiều hơn hai lần tỉ lệ nam: 5,2%. Số năm đi học trung bình của dân số nam từ 6 tuổi trở lên là 6,7 năm, nhiều hơn số năm đi học của nữ: 5,6%.
Biểu đồ và bảng số liệu:
Số lượng học sinh phổ thông tại thời điểm ngày 31 tháng 12 giai đoạn 200 – 2009 phân theo giới tính
Năm:
2000-2001
2001-2002
2002-2003
2003-2004
2004-2005
2005-2006
2006-2007
2007-2008
2008-2009
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Tiểu học
5127
4615
4887
4428
4617
4199
4359
3987
4053
3692
3781
3523
3622
3408
3576
3284
3501
3231
THCS
3123
2741
3300
2959
3368
3063
3436
3134
3423
3194
3277
3094
3415
2965
2973
2830
2808
2661
THPT
1156
1016
1366
1089
1286
1169
1331
1258
1421
1349
1507
1468
1560
1515
1465
1557
1385
1543
Số học sinh (Đơn vị: nghìn)
17776,1
17875,6
17699,6
17505,4
17122,6
16650,6
16256,6
15685,2
15127,9
(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn)
Tuy nhiên, nhìn vào biểu dồ, ta cũng có thể nhận thấy, từ năm 2000 đến 2009, số nữ đi học cấp III đã tăng lên đáng kể. Đây là một dấu hiệu tích cực để đánh giá sự bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục.
3. Những hệ quả của bất bình đẳng trong giáo dục
Khi có những bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận các nguồn lực cuộc sống thì tất yếu dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Thực tế đã cho thấy điều này diễn ra ở cả trên thế giới và ở Việt Nam.
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ chúng mù chữ hoặc không được đến trường. Không được đi học dẫn đến chất lượng chăm sóc con cái thấp, điều này lại khiến tỉ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh cao. Những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường có hành vi bảo vệ sức khỏe cho con cái phù hợp hơn, chẳng hạn như cho con cái đi tiêm chủng.
Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn đóng vai trò quyết định trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã hội sẽ được nâng lên.
Mặt khác, kể cả các nước có nền kinh tế mới phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, khi vấn đề bình đẳng giới không được giáo dục cũng ảnh hưởng rất lớn khi những định kiến “trọng nam” trong xã hội cộng với chính sách chỉ đẻ một con của Trung Quốc đã khiến tỉ lệ tử vong của bé gái cao hơn của bé trai. Theo một số ước tính, số phụ nữ đang sống hiện nay ít hơn từ 60 – 100 triệu người so với con số khi không có sự phân biệt đối xử theo giới.
Bất bình đẳng giới trong giáo dục làm giảm chất lượng nguồn nhân lực trung bình của xã hội. thực vậy, nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
4. Một số nguyên nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục
Hiện tượng bất bình đẳng tạo ra những hệ quả xã hội to lớn. Ảnh hưởng từ quá trình tiếp cận nguồn lực của nam giới và phụ nữ đến sự phát triển của xã hội là một thực tế đã được chứng minh. Vậy, nguyên nhân tại sao sự phân biệt đó vẫn cứ tồn tại dai dẳng? Một số kiểu bất bình đẳng giới còn khó thủ tiêu hơn cả các hiện tượng xấu khác của xã hội? Dưới đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến các quan hệ giới và bất bình đẳng xã hội.
Các thể chế xã hội, các chuẩn mực xã hội, tập quán xã hội, quyền hạn, luật lệ - cũng như các thể chế kinh tế như thị trường… tác động rất lớn đến loại nguồn lực nào mà họ được tiếp cận, hoạt động nào mà giới nào được phép tham gia, giới nào được phép tham gia nền kinh tế - xã hội dưới hình thức nào. Chính những thể chế đó đã quy định động cơ khuyến khích hay không khuyến khích các định kiến giới. ngay cả khi chúng không công khai phân biệt thì những thể chế chính thức hay không chính thức đó vẫn thường chịu sự tác động bởi các chuẩn mực xã hội về những vai trò thích hợp theo giới. Có rất nhiều thể chế có những sức người nhất định của nó, khiến rất khó và rất chậm để có thể thay đổi được.
Một nguyên nhân nữa là do các hộ gia đình. Các hộ gia đình đã định hình các mối quan hệ giới ngay từ đầu của quá trình xã hội hóa cá nhân và còn truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những định kiến giới của cha mẹ biểu hiện như: quan niệm cho rằng các em gái không cần phải học nhiều mà cần phải làm việc nội trợ giúp gia đình.
Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục. Tình trạng đói nghèo của gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ, các nghiên cứu xã hội học về giáo dục cho thấy một tỉ lệ bỏ học rất đáng kể của những trẻ em xuất thân từ gia đình nghèo, cha mẹ ít học thậm chí là không biết chữ sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới vẫn có thể tạo
ra những kết cục phân biệt về giới. Các chính sách, cùng với các chuẩn mực xã hội hay phân công đồng đều có thể dẫn đến việc tiếp cận các nguồn lực không đồng đều giữa nam và nữ. Việc không nhận thức được hoặc bỏ qua sự khác biệt về giới khi thiết kế các chính sách có thể có hại cho hiệu lực của các chính sách đó, xét cả trên khía cạnh công bằng lẫn hiệu quả.
Như vậy, các thể chế xã hội, thể chế kinh tế, hộ gia đình và các chính
sách phát triển sẽ cùng nhau quyết định các cơ hội cuộc sống – xét trên khía cạnh giới – của con người. chúng cũng thể hiện những điểm đột phá quan trọng cho chính sách công cộng nhằm giải quyết sự bất bình đẳng giới.
III. Một số giải pháp về bất bình đẳng giới’
Thứ nhất, thể hiện bình đẳng giới trong các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, tạo mọi điều kiện cho trẻ em được học hành, phát triển.Ví dụ Nghị quyết số 11 của Bộ chính trị - BCHTW Đảng khoá X Về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe: Đổi mới và phát triển mạng lưới tư vấn sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản; giáo dục giới tính và tình dục an toàn vị thành niên; vận động nam, nữ áp dụng các biện pháp tránh thai; tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình; phòng trừ bệnh dịch.
Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép giới vào chương trình dạy học trong các nhà trường.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới.
Thứ năm, Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về bình đẳng giới
Thứ năm, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và năng lực của Hội Phụ nữ các cấp.
Thứ sáu, bản thân chị em phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên, rèn luyện theo các tiêu chí: có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.
Cần một lộ trình tiến tới bình đẳng giới, “ Báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới năm 2007” đưa ra các giải pháp có thể tham khảo.
Đây là mục tiêu thiên niên kỷ thứ 3 nhằm thúc đẩy những mục tiêu khác từ giảm đói nghèo đến cứu vớt sự sống còn của trẻ em, tăng cường sức khỏe sinh sản, bảo đảm giáo dục phổ cập, phòng chống HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các căn bệnh khác, và bảo đảm sự bền vững về môi trường. Ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã từng khuyến cáo rằng, “Không nên xem bình đẳng giới một cách thiển cận như là vấn đề chỉ của riêng phụ nữ, nó đặt ra cho chúng ta những câu hỏi cơ bản về bản chất các mối quan hệ trong xã hội chúng ta. Đó là vấn đề đòi hỏi cả nam giới và phụ nữ cùng ngồi lại với nhau tìm ra các giải pháp sao cho vừa mang tính thực tiễn vừa phải dựa trên các nguyên tắc. Nhưng các giải pháp trên sẽ không được chấp nhận hay bền vững nếu sự bình quyền, chân giá trị và công việc của nam giới và nữ giới không được tôn trọng.”
Bình đẳng giới sẽ tạo ra “lợi ích kép” cho cả phụ nữ và trẻ em - tương lai của một dân tộc - nó giữ vai trò then chốt đối với sức khỏe và sự phát triển của gia đình, cộng đồng và quốc gia. Việc loại bỏ sự phân biệt đối xử về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ sẽ tạo ra một sự tác động sâu sắc và tích cực đến sự sống còn và phát triển của trẻ em và nhân loại nói chung. Sự tham gia của phụ nữ vào những quyết định quan trọng sẽ cải thiện cuộc sống của chính họ và tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự tồn tại và phát triển của trẻ em.
Lộ trình tới bình đẳng giới đưa ra nhiều giải pháp chính nhằm cải thiện
tình hình, trong đó, giáo dục được quan tâm hàng đầu. Giải pháp giáo dục bình đẳng giới phải gắn liền với việc lồng ghép giới vào quá trình xây dựng chính sách, chương trình, thực hiện và đánh giá trong cả lĩnh vực văn hoá và giáo dục. Chính phủ và ngành giáo dục - đào tạo cần xây dựng và hỗ trợ các chương trình có lợi cho trẻ em gái và phụ nữ, đặc biệt là các chương trình thúc đẩy bình đẳng giới, xây dựng năng lực tổ chức nội sinh có căn cứ cụ thể vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi vùng miền.Trong bối cảnh nước ta thực hiện nền giáo dục cho mọi người với một trong những mục tiêu là xoá bỏ bất bình đẳng giới trong giáo dục tiểu học và trung học vào năm 2005, đạt được bình đẳng giới vào năm 2015, đảm bảo các trẻ em gái có đầy đủ quyền lợi bình đẳng tiếp cận tới nền giáo dục cơ bản có chất lượng tốt, việc cung cấp môi trường học tập có định hướng tới các vấn đề về giới và cơ hội ngang bằng tiếp cận tới các chương trình giáo dục phù hợp cho các thành viên trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái trong điều kiện khó khăn.
Việc giáo dục bình đẳng giới là một nhiệm vụ quan trọng được các cấp
lãnh đạo và quản lý, nhất là ngành giáo dục - đào tạo không ngừng quan tâm trong thời gian qua. Đến cuối năm 2005, Dự án giáo dục dân số, sức khoẻ, gia đình nhằm nâng cao chất lượng giáo dục dân số, sức khoẻ, sinh sản vị thành niên trong các trường trung học phổ thông do Bộ Giáo dục - đào tạo phối hợp với Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em đã cơ bản hoàn thành tập huấn cho 390 giảng viên cấp tỉnh, 1010 cán bộ quản lý v