Xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là con đường tất yếu để Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở nước ta rất phong phú, đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó do sự tác động của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu,. trong nền kinh tế nước ta cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng hay quan hệ kinh tế vốn không tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa. Một trong những hiện tượng đó là sự phá sản của các doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp bị phá sản sẽ kéo theo những hậu quả nhất định như sự xáo trộn trong nền sản xuất, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm của người lao động, đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Do đó, để đảm bảo, duy trì mối quan hệ hài hòa giữa những lợi ích nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải có một cơ chế pháp lý thống nhất và chặt chẽ.
Ngay từ khi Đảng và Nhà nước xác định chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đạo luật phá sản đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam đã được ban hành năm 1993 để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh pháp luật đó. Tuy nhiên, trong 10 năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp 1993 (Luật PSDN (1993) đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Luật phá sản năm 2004 (2004) ra đời tưởng chừng như đã khắc phục được những hạn chế của Luật PSDN 1993. Thế nhưng, sau hơn 3 năm thi hành, số lượng các vụ việc phá sản được thụ lý vẩn ở mức rất khiêm tốn: tổng cộng chỉ có gần 60 hồ sơ được thụ lý ở cả ba khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng. Điều đó không có nghĩa là môi trường kinh doanh trong nước hết sức lành mạnh mà phản ánh rằng các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản vẫn chưa tìm thấy ở pháp luật phá sản hiện hành một cơ sở vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho mình.
63 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là con đường tất yếu để Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở nước ta rất phong phú, đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó do sự tác động của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu,... trong nền kinh tế nước ta cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng hay quan hệ kinh tế vốn không tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa. Một trong những hiện tượng đó là sự phá sản của các doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp bị phá sản sẽ kéo theo những hậu quả nhất định như sự xáo trộn trong nền sản xuất, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm của người lao động, đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Do đó, để đảm bảo, duy trì mối quan hệ hài hòa giữa những lợi ích nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải có một cơ chế pháp lý thống nhất và chặt chẽ.
Ngay từ khi Đảng và Nhà nước xác định chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đạo luật phá sản đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam đã được ban hành năm 1993 để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh pháp luật đó. Tuy nhiên, trong 10 năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp 1993 (Luật PSDN (1993) đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Luật phá sản năm 2004 (2004) ra đời tưởng chừng như đã khắc phục được những hạn chế của Luật PSDN 1993. Thế nhưng, sau hơn 3 năm thi hành, số lượng các vụ việc phá sản được thụ lý vẩn ở mức rất khiêm tốn: tổng cộng chỉ có gần 60 hồ sơ được thụ lý ở cả ba khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng. Điều đó không có nghĩa là môi trường kinh doanh trong nước hết sức lành mạnh mà phản ánh rằng các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản vẫn chưa tìm thấy ở pháp luật phá sản hiện hành một cơ sở vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Bên cạnh đó, tháng 12 năm 2006 Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, chính thức tham gia vào sân chơi thương mại mang tính toàn cầu. Sự hội nhập với các nền kinh tế lớn cũng sẽ kéo theo hệ quả không thể tránh khỏi của quy luật cạnh tranh khắc nghiệt, khi các doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Jan Noether, Trưởng đại diện Phòng thương mại và công nghiệp Đức tại Việt Nam đã phát biểu: “Vào WTO đồng nghĩa với những vụ phá sản hàng loạt và thất nghiệp trong giai đoạn đầu”. Điều này cũng có nghĩa là yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi cho đối tượng này càng trở nên cấp thiết.
Do vậy, nghiên cứu về thủ tục phá sản để làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi trường kinh tế quốc tế.
Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản” làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn được kết cấu gồm ba chương không kể lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương I: Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản.
Chương II: Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản.
Chương III: Thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản.
Với trình độ còn nhiều hạn chế cũng như kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và tất cả các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1.1. Quan niệm về phá sản
1.1.1. Quan niệm về phá sản theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ chữ "Ruin" trong tiếng Latinh có nghĩa là "sự kháng tận". Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối giữa thu và chi của một doanh nghiệp. Ở Châu Âu khi nói đến phá sản người ta thường dùng danh từ "Bankrupcy" trong tiếng Anh hoặc "Banqueroute" trong tiếng Pháp. Cả hai danh từ này đều bắt nguồn từ chữ "Bancanetta" của Lamã, có nghĩa là "chiếc ghế bị gãy". Ở thời Lamã các thương gia ở thành phố thường họp nhau lại để xem xét việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ bị mất quyền tham gia đại hội thương gia và ghế của họ cũng bị đem ra khỏi hội trường.
Theo Luật phá sản nhiều nước trên thế giới thì phá sản là tình trạng một doanh nghiệp không có khả năng nộp thuế, không có khả năng thanh toán công nợ trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên việc quan niệm thế nào là mất khả năng thanh toán nợ ở các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. Có nhiều nước quy định rõ chỉ số nợ đến hạn chưa được thanh toán để xác định doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng ở đại đa số nước thì vấn đề định lượng khoản nợ như vậy thường không được đặt ra.
* Luật phá sản Hungari ban hành năm 1991 quy định nếu doanh nghiệp bị rơi vào một trong các trường hợp sau đây đều bị xếp vào loại không có khả năng thanh toán.
+ Sau 60 ngày không trả được lương cho cán bộ công nhân viên của mình hoặc quá hạn 30 ngày không trả được nợ cho các chủ nợ mà con nợ không thảo luận với các chủ nợ hoặc thấy trước khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trong vòng một năm.
+ Đã có lệnh buộc phải trả nợ nay hết hạn nhưng vẫn chưa trả được nợ.
+ Không thực hiện đúng cam kết với các chủ nợ trước pháp luật.
* Luật phá sản của Singapo ban hành năm 1985 thì các con nợ bị rơi vào một trong các tình trạng sau thì đều bị coi là phá sản.
+ Nếu con nợ cố ý gian lận để chuyển giao, chuyển nhượng, biếu xén hay tẩu tán một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hoặc ở nước khác.
+ Nếu bị tuyên bố phá sản mà con nợ chuyển giao hay chuyển nhượng một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hay ở nước ngoài cho người khác hay cố tạo các khoản chi phí mà pháp luật hiện hành coi là giả mạo không hợp pháp.
+ Nếu con nợ bị tòa án quận huyện hay cấp trên xử phạt bằng cách tịch thu tài sản và chịu án phí 500 đô la (tiền Singapore).
+ Nếu con nợ báo tin cho chủ nợ rằng anh ta hủy bỏ hoặc trì hoãn công nợ.
+ Nếu con nợ điều đình xin khất nợ với hai chủ nợ trở lên hoặc đưa ra kế hoạch trả nợ nhưng trong vòng 14 ngày sau khi cam kết trả nợ, kế hoạch ấy vẫn chưa được đăng ký trước Tòa án đúng như chế độ thanh toán công nợ hiện hành.
+ Nếu chánh án hay nhân viên Tòa án cấp quận huyện tiến hành kiểm kê tài sản thấy rằng con nợ không còn tài sản để tịch thu. Và như vậy ngày Tòa án hết lệnh kiểm kê được coi là ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Nếu trước Tòa án con nợ xin phá sản hoặc tuyên bố phá sản.
* Luật phá sản Australia đưa ra một số căn cứ để dựa vào đó quyết định tuyên bố phá sản.
+ Khi số tiền mặt của doanh nghiệp cộng với giá trị tài sản không thuộc loại có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp và khả năng dễ chuyển nhượng mà nhỏ hơn tổng số nợ không có bảo đảm thì coi như doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản.
+ Khi nhận giấy đòi nợ với số lượng lớn mà con nợ không đưa ra được bằng chứng nào trước tòa về khả năng thanh toán món nợ. Do chính luật sư của doanh nghiệp mắc nợ đưa ra rằng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn. Nếu chủ doanh nghiệp không đưa ra sự phản đối có cơ sở thuyết phục.
+ Khi thẩm phán có thông tin cho rằng nhiều séc của doanh nghiệp bị Ngân hàng từ chối thanh toán. Trong trường hợp này nếu muốn Toà án không ra quyết định tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp phải chứng minh trước Tòa là séc này có thể thanh toán được.
+ Khi doanh nghiệp đang khó khăn về tài chính mà tất cả các chủ nợ có bảo đảm lại đòi đối xử với các vật bảo đảm, thẩm phán có thể ra quyết định phá sản với doanh nghiệp nào là vì có thể rõ ràng suy đoán rằng do không trả được nợ nên các chủ nợ mới tước đi các vật cầm cố, thế chấp.
+ Khi một doanh nghiệp không thực hiện được yêu cầu của thẩm phán về việc thanh toán một món nợ nào đó theo thủ tục pháp lý thông thường, tức là khi còn nợ người khác mà có lệnh trả nợ của thẩm phán mà con nợ vẫn không thi hành đó chính là dấu hiệu mất khả năng thanh toán.
* Luật phá sản Bỉ quy định một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là doanh nghiệp không trả được nợ đến hạn, bị mất uy tín về tài chính, tức là không còn đủ tài sản để đảm bảo các số nợ của mình hoặc kiếm cách trả nợ bằng phương pháp bất thường. Đối với cá nhân thì luật không phân biệt.
* Luật không có khả năng thanh toán và luật treo giò giám đốc của Anh ban hành năm 1986 thì các doanh nghiệp có giá trị tài sản thấp hơn số nợ phải trả (hiện tại và tương lai) đều bị xếp vào loại không có khả năng thanh toán. Nhưng ở Anh không có khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp bị xếp vào loại phá sản, mà ở nước này còn dành một thời gian để khôi phục doanh nghiệp, sau thời gian này nếu doanh nghiệp không trở lại hoạt động bình thường được và không trả được nợ thì sẽ bị tuyên bố phá sản.
1.1.2. Quan niệm về phá sản theo pháp luật Việt Nam
Ở nước ta, khái niệm phá sản mới xuất hiện sau thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế. Văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến giải quyết tình trạng doanh nghiệp thua lỗ không có khả năng thanh toán đó là Quyết định số 315 HĐBT ngày 01/09/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Tại khoản 4 Điều 3 của quyết định số 315 HĐBT ngày 01/09/1990 quy định: “Đối với các đơn vị kinh doanh thua lỗ kéo dài nhiều năm thì bộ và địa phương phải lập danh sách đầy đủ, tiến hành phân loại theo mức độ quan trọng của các sản phẩm và dịch vụ do đơn vị tạo ra và theo mức độ kém hiệu quả của các đơn vị. Từ đó tìm biện pháp để hỗ trợ cho đơn vị hoạt động sáp nhập vào xí nghiệp khác hoặc chuyển thành các tổ chức kinh tế tập thể. Nếu đã thực hiện các biện pháp chấn chỉnh trên mà vẫn không có hiệu quả tiếp tục thua lỗ không có khả năng trả nợ thì cho phép giải thể . . ."
Như vậy Quyết đính số 315 HĐBT 01/09/1990 đã đề cập đến những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ không có khả năng thanh toán (bản chất là phá sản). Tuy nhiên những doanh nghiệp thuộc diện này theo Quyết định số 315 HĐBT chỉ cho phép giải thể. Khái niệm phá sản lúc này vẫn chưa được đặt ra.
Đến luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 thì khái niệm phá sản mới chính thức được đề cập tới. Theo tinh thần quy định tại Điều 24 luật Công ty ngày 21/12/1990 và Điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990 thì khi doanh nghiệp tư nhân hoặc Công ty (gọi chung là doanh nghiệp) gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số giá trì các tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Quan niệm về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như cách tiếp cận của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty đã không đảm bảo được sự bao quát cần thiết. Thực tiễn phá sản ở các nước trên thế giới cho thấy có thể một doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó giá trị tổng số còn lại của doanh nghiệp nhỏ hơn tổng số nợ đến hạn nhưng chưa chắc đã đưa doanh nghiệp đó đến tình trạng phá sản, nếu như nợ đến hạn doanh nghiệp đó vẫn thanh toán được đều đặn (tức là không có dấu hiệu ngừng thanh toán nợ). Ngược lại sẽ có không ít những doanh nghiệp tài sản lớn hơn và thậm chí lớn hơn rất nhiều so với nợ đến hạn nhưng vẫn bị Toà án tuyên bố phá sản nếu như các khoản nợ đó doanh nghiệp không có khả năng thanh toán (ngừng thanh toán).
Trong quá trình nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện nhận thức về phá sản doanh nghiệp, khắc phục hạn chế này của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty, Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993 quy định: “doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo quy định này thì dấu hiệu "mất khả năng thanh toán nợ đến hạn" là dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, còn dấu hiệu “đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết” chỉ là những dấu hiệu bổ sung cho việc xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Các dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã được quy định chi tiết tại Điều 3 của Nghị định số 189 CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ. Cụ thể:
(1) Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nói tại Điều 2 của Luật phá sản doanh nghiệp, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong 2 năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, trong 3 tháng liên tiếp không trả đủ lương cho người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động.
(2) Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản như trên, doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn như: Có phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lí chặt chẽ các khoản chi phí, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm; có biện pháp xử lí hàng hóa, sản phẩm, vật tư tồn đọng; thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng; thương lượng với các chủ nợ để hoãn, mua, bảo lãnh, giảm và xóa nợ; tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các khoản nợ đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
(3) Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết trên đây mà doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và phải xử lí theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
Như vậy, theo Luật PSDN, chỉ có thể áp dụng thủ tục phá sản đối với một doanh nghiệp khi đã lâm vào tình trạng phá sản, tức là phải có đầy đủ 3 điều kiện trên.
Có thể nhận thấy rằng Luật PSDN và Nghị định số 189/CP (1994) đã có những quy định khá chặt chẽ về điều kiện để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên, với những quy định chặt chẽ như vậy, pháp luật phá sản đã đi theo hướng thủ tục phá sản được áp dụng là để xử lý tài sản của con nợ hơn là để phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bởi vì, trên thực tế, chờ cho đến lúc hội đủ các điều kiện trên mới mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp sẽ không có một khả năng tài chính nào để khôi phục lại doanh nghiệp của mình và lúc đó nếu mở thủ tục phá sản cũng chỉ để thanh lý, chứ không phải để khôi phục doanh nghiệp. Như vậy, một mục đích quan trọng của việc ban hành Luật PSDN (tạo điều kiện cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khôi phục hoạt động kinh doanh, nhằm trở lại thương trường) đã không đạt được.
Nhằm khắc phục hạn chế này, Luật phá sản năm 2004 quy định theo hướng đơn giản hóa tiêu chí xác định tình trạng phá sản, tôn trọng quyền thỏa thuận so với Luật phá sản năm 1993 , theo Điều 3 thì “doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ khi chủ nợ yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, tiêu chí này đã được quy định đơn giản hơn trước, dễ thực hiện vì không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng thua lỗ, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản, cũng như tạo khả năng phục hồi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, điều đó có ý nghĩa quan trọng, bởi nếu xác định tình trạng này muộn sẽ có rất ít cơ hội thành công, cho dù đó là thủ tục thanh toán hay là tình trạng phục hồi.
Qua khái niệm trên ta thấy dấu hiệu để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã (DN, HTX) lâm vào tình trạng phá sản là DN, HTX đó không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu và như quy định tại Mục 2 – Chương I – Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/04/2005 thì việc không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán được hiểu cụ thể như sau:
- Có các khoản nợ đến hạn:
Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp.
- Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán.
Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã. . .)
Nghiên cứu dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, về phương diện lí luận cũng như thực tiễn cần xem xét một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là DN, HTX hoàn toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể còn rất nhiều tài sản mà vẫn mất khả năng thanh toán, chỉ vì tài sản đó không thể bán được, cho nên doanh nghiệp không có tiền để thanh toán các khoản nợ.
Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng tài chính tuyệt vọng, trừ phi có sự can thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của các chủ nợ.
Thứ ba, đối với doanh nghiệp tư nhân, nếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh có giao kết bất kì hợp đồng nào mà sau đó phát sinh ra các khoản nợ thì các khoản nợ này được coi là cơ sở để đánh giá tình trạng phá sản của doanh nghiệp. Nhưng ở đây cũng cần phân biệt với các khoản nợ cho do chủ doanh nghiệp tư nhân xác lập trên cơ sở những hợp đồng phục vụ cho sinh hoạt cá nhân hoặc gia đình họ vì nó không xuất phát từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh toán một khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau, có thể có những doanh nghiệp nợ vài ba chục triệu nhưng không có cách gì để trả, trong lúc có những doanh nghiệp nợ tới vài ba trăm triệu vẫn có khả năng thanh toán bình thường.
Thứ năm, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng điều này chỉ có tính chất nhất thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài chính tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều phương tiện gian trá để bù đắp ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản nhiều lần để vay vốn ngân hàng . . .
Do đó, về cơ bản khi con nợ ngừng trả nợ thì coi như đã lâm vào tình trạng phá sản và lúc đó, các chủ nợ đã có cơ sở pháp lí để làm đơn yêu cầu Toà án thụ lý và giải quyết vụ việc phá sản mà họ là nguyên đơn.
Tóm lại, theo quy định của pháp luật Việt Nam, phá sản là khái niệm dùng để chỉ doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với dấu hiệu đặc trưng nhất là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn đã bị phá sản. DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản.
1.2. Sự tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Sự tác động của phá sản trong nền kinh tế thị trường
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường nó là hiện tượng thường kéo theo những hiệu quả kinh tế xã hội nhất định nó tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội và pháp luật.
1.2.1.1 Về mặt tiêu cực
Phá sản thường gây ra những xáo trộn ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến các nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một vấn đề nổi cộm, rất nhiều quốc gia tìm cách hạn chế khắc phục nó, nhưng nhìn chung vấn đề này là một vấn đề khó giải quyết. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp nhưng có lẽ phá sản là nguyên nhân không nhỏ dẫn tới đội quân thất nghiệp ngày càng kéo dài thêm mãi gây biết bao hậu quả không lường cho xã hội. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc l