Quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong thời gian qua đã thu được những kết quả khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hoạt động Ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, hoạt động của ngành ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành ngân hàng vẫn còn những tồn tại. Một trong những tồn tại chủ yếu năng lực quản lý hoạt động tín dụng còn yếu, biểu hiện dễ nhận thấy nhất là nợ quá hạn, nợ khó đòi làm suy giảm năng lực của hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, việc đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động của mọi ngân hàng.
Quản lý rủi ro tín dụng là một trong những mục tiêu cơ bản trong quá trình thực hiện đề án cơ cấu lại một cách toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Habubank) nói riêng trước yêu cầu mở cửa thị trường tài chính dịch vụ theo các cam kết quốc tế của Việt Nam. Xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng của Habubank, em xin được chọn đề tài: “ Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Habubank”
107 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Habubank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong thời gian qua đã thu được những kết quả khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hoạt động Ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, hoạt động của ngành ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành ngân hàng vẫn còn những tồn tại. Một trong những tồn tại chủ yếu năng lực quản lý hoạt động tín dụng còn yếu, biểu hiện dễ nhận thấy nhất là nợ quá hạn, nợ khó đòi làm suy giảm năng lực của hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, việc đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động của mọi ngân hàng.
Quản lý rủi ro tín dụng là một trong những mục tiêu cơ bản trong quá trình thực hiện đề án cơ cấu lại một cách toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Habubank) nói riêng trước yêu cầu mở cửa thị trường tài chính dịch vụ theo các cam kết quốc tế của Việt Nam. Xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng của Habubank, em xin được chọn đề tài: “ Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Habubank”
Chương 1: Lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn, tạm thời sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình quan hệ tín dụng cùng tồn tại như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế. Song căn cứ vào chức năng và vai trò của NHTM với nền kinh tế mà tín dụng ngân hàng có thể được coi là loại quan hệ tín dụng quan trọng nhất, phổ biến nhất với nền kinh tế và thường xuyên được quan tâm nghiên cứu.
Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, một bên là các chủ thể còn lại của nền kinh tế. Tuy nhiên, quan niệm phổ biến về tín dụng ngân hàng là: Tín dụng ngân hàng được hiểu là việc cho vay của NHTM với các chủ thể của nền kinh tế.
Theo luật tổ chức tín dụng năm 1998 của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác” và “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”
1.1.2.Phân loại tín dụng:
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng.Sau đây là một số cách phân loại:
- Phân loại theo thời gian( thời hạn tín dụng): Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng còng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn : từ 12 tháng trở xuống
+ Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm
+ Tín dụng dài hạn: trên 5 năm
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể( ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng 1 khoản tín dụng.Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Ví dụ, cho vay 3 tháng từ 1/1 đến 1/4 có nghĩa ngân hàng sẽ phát tiền vat đầu tiên vào lúc 1/1 và đến 1/4 sẽ phải thu hết gốc và lãi. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng. Ví dụ, ngân hàng cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng 100 triệu trong 6 tháng, hết 6 tháng ngân hàng sẽ xem xét lại, có thể tăng giảm hoặc chấm dứt quan hệ tín dụng với khách hàng.Tuy nhiên còng có khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thỏa thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền.Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
- Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
+ Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu 1 thương phiếu chưa đến hạn( hoặc 1 giấy nợ). Về mặt pháp lí thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về 1 khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, nhưng thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
+ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
+ Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
+ Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho khách hàng.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo:
+ Tín dụng không có đảm bảo: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp không có bảo lãnh của người thứ ba.
+ Tín dụng có đảm bảo: là tín dụng có tài sản cầm cố thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba.
Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này,ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.Có thể kể các loai tín dụng sau:
+Tín dụng lành mạnh: là các khoant tín dụng có khả năng thu hồi cao.
+Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá ytij lớn…
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì..
Căn cứ vào mục đích của tín dụng:
+ Tín dụng bất động sản: đây là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản, bao gồm: tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai và tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ cơ sở dịch vụ, trang trại và bất động sản ở nước ngoài.
+ Tín dụng công và thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trang trải chi phí thu mua nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương.
+Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp, nhằm trợ cấp cho các hoạt động nông nghiệp, trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.
+Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm hàng hóa tiêu dung đắt tiền như xe hơi, nhà cửa, trang thiết bị trong nhà…
+ Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
+ Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và cho thuê lại chúng.
+ Tín dụng khác: bao gồm các khoản tín dụng chưa được phân loại ở trên( ví dụ như tín dụng kinh doanh chứng khoán)
1.1.3.Các nghiệp vụ tín dụng
1.1.3.1.Chiết khấu thương phiếu:
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và dịch vụ giữa khách hàng với nhau.Người bán(hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Sau đây là sơ đồ luân chuyển thương phiếu: Người bán chuyển hàng hóa hoặc dịch vụ cho người mua
Thương phiếu được lập, người mua kí, cam kết trả tiền cho người thụ hưởng khi thương phiếu đến hạn và giao thương phiếu cho người bán đồng thời là người thụ hưởng.
Trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu, người bán có thể mang thương phiếu đến ngân hàng để xin chiết khấu.
Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, ngân hàng có thể phát tiền cho người bán và nắm giữ thương phiếu( ngân hàng có thể yêu cầu người bán kí hậu thương phiếu, cam kết trả tiền cho ngân hàng nếu người mua không trả, quyền truy đòi đối với thương phiếu).
Đến hạn ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền( nếu người mua không trả, ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên thương phiếu).
Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vaò lãi suất chiêt khâú, thời hạn chiết khấu và lệ phí chiết khấu. Ví dụ, nếu lãi suất chiết khấu là 6%, giá trị của thương phiếu là 1 triệu đồng, thời hạn còn lại của thương phiếu 6 tháng thì số tiền ngân hàng phát ra là: 1 triệu*(1-0,06/2)=0,97 triệu
Nếu sau 6 tháng ngân hàng đòi được1triệu thì số lãi mà ngân hàng thu được trong 6 tháng là: 1-0,97= 0,03 triệu.
Vậy lã suất thực là: 0,03*2/0,97=6,185%/năm
Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu( thường chung cho các thương phiếu) ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm lệ phí chiết khấu đối với những trường hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách, ngân hàng thường kí với khách hợp đồng chiết khấu( cấp cho khách hàng hạn mức chiết khấu trong kì). Khi cần chiết khấu khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có 2 người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao( trừ trường hợp ngân hàng kí miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp( vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng- có tính thanh khoản cao).
1.1.3.2. Cho vay
+ Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến 1 giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng han mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết thấu chi cho ngân hàng).
Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập ủy nhiệm chi…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà ngân hàng phải trả là: lãi suất thấu chi * thời gian thấu chi * số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và qui mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào 1 số giai đoạn nhất định của chi kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản.Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt.
+ Cho vay theo hạn mức:
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay-trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng qui định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời gian hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng còng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hóa mua vào (có hóa đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng.Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay-trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy, việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hóa tồn đọng..)thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được qui định rõ ràng.
+ Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kì của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lí thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng còng bị ảnh hưởng.Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp:
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó ngân hàng còng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp.Đây là hình thức cho vay thông qua các hình thức trung gian.
Ngân hàng
Trung gian: tổ, đội, hội, nhóm
Khách hàng (thường là nông dân, người buôn bán nhỏ…)
(1)
(2)
(3)
(3)
Phân tích tín dụng trước khi cho vay
Ngân hàng phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng
Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho ngân hàng
Ngân hàng cho vay qua các tổ, hội, đội nhóm như nhóm sản xuất,Hội nông dân, Hội cựu chiến binh,Hội phụ nữ ..Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo các mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xóa đói giảm nghèo luôn được các trung gian quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các hoạt động trung gian, như thu nợ, phát tiền vay…Tổ chức trung gian còng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên đưa ra bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện cho người vay không có hoặc không đủ thời gian thế chấp.Để bù đắp một phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian.
Ngân hàng còng có thể cho vay thông qua các sản phẩm bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích,giám sát, thu nợ..)
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên,