Hạt đậu nà nh gồm hai phần: vỏ hạt và phô i. Vỏ bao bọc bê n ngoài để bảo vệ ph ô ibên trong. Vỏ hạt dà y hay mỏng t ùy theo giống, vỏ chỉ chiếm khoảng 8 % khối lượnghạt, ph ầ n phô i bê n trong chứa hai tử diệp, chứa đạm và dầu n ê n chiếm 90 % trọng lượng hạt. (Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2004)
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 34 trang
34 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3031 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sản xuất protein isolate từ đậu nành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 1 
I. GIỚI THIỆU NGUYỆN LIỆU 
I.1 Tổng quan về cây đậu nành 
Đậu nành, hay còn gọi là đậu tương (tên khoa học: Glycine soja Siebold et Zucc 
hoặc Glycine max (L.) Merrill, hay Soya hispida Maxim), có nguồn gốc từ phương Đông, 
được thuần hóa đầu tiên ở Trung Quốc vào khoảng năm 644 trước CN. 
Giới : Plantae 
Ngành :Magnoliophyta 
Lớp : Magnoliopsida 
Bộ : Fabales 
Họ : Fabaceae 
Phân họ : Faboideae 
Giống : Glycine 
Loài : max 
Tên thứ hai : Glycine max 
Điều kiện để cây đậu nành phát triển tốt: 
o pH đất trồng: 6,0 – 6,5 
o Nhiệt độ: 25 – 300C 
o Lượng mưa: 500 -700mm 
o Thời kì trồng : cuối mùa đông, đầu mùa hè 
Tính chất vật lý của hạt đậu nành: 
o Hình dạng: từ tròn tới thon dài và dẹt 
o Màu sắc: vàng, xanh, nâu hoặc đen 
o Kích thướt : 18-20g/100 hạt 
Cấu trúc hạt đậu nành: 
Hạt đậu nành gồm hai phần: vỏ hạt và phôi. Vỏ bao bọc bên ngoài để bảo vệ phôi 
bên trong. Vỏ hạt dày hay mỏng tùy theo giống, vỏ chỉ chiếm khoảng 8 % khối lượng 
hạt, phần phôi bên trong chứa hai tử diệp, chứa đạm và dầu nên chiếm 90 % trọng lượng 
hạt. (Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2004) 
Hình 1.1 : Cây đậu nành 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 2 
I.1.1 Lịch sử phát triển đậu nành 
Năm 2838 trước công nguyên, hoàng đế Trung Quốc Sheng Nung viết Materia 
Medica. Trong tài liệu này, cây đậu nành được ghi chú là có giá trị vì khả năng làm 
thuốc. Đậu nành được trồng đầu tiên ở Bắc Trung Quốc, từ đây đã truyền sang Nhật, Hàn 
Quốc và Nam Á. Đậu nành đã được biết đến như là một thứ thuốc ở các tài liệu từ Trung 
Quốc, Ai Cập và Mesopotamia ở những năm 1500 trước công nguyên hay sớm hơn. Ở 
thời ấy, những hợp chất đã lên mốc, lên men từ đậu nành đã được sử dụng như là những 
chất kháng sinh để trị vết thương và giảm sưng. 
Năm 1712, đậu nành được giới thiệu vào Châu Âu bởi Englebert Kaempfer, nhà 
thực vật học người Đức đã được học ở Nhật. Một nhà thực vật học người Thụy Điển Carl 
von Linne đã hoàn tất nghiên cứu đậu nành và đặt tên cho nó là Glycine max bởi những 
nốt sần ở rễ. Không may là đất và khí hậu không thích hợp ở Châu Âu đã làm cho sự thử 
nghiệm sản xuất đậu nành bị ngưng. 
Cây đậu nành đến Mỹ những năm 1800. Thời đó đậu nành được sử dụng như một 
ballast (vật nặng để giữ cho tàu thuyền thăng bằng khi không có hàng) cho những thuyền 
có hành trình xa từ Trung Quốc và được dỡ hàng nhường chỗ cho hàng hóa trong chuyến 
đi kế tiếp. Vì tò mò, một vài nông dân đã trồng hạt đậu nành. Cây đậu nành đầu tiên 
trồng ở Mỹ là cây đậu đã lớn lên ở Pennsylvania. 
Năm 1829, những nông dân Mỹ đã trồng đậu nành theo vụ và đến năm 1898 Bộ 
Nông Nghiệp Mỹ đã đem về một số giống khác từ Châu Á. 
Năm 1904, George Washington Carver đã khám phá ra rằng đậu nành giàu 
protein và dầu. Người tiên phong về đậu nành William. J .Morse đã trải qua hai năm ở 
Trung Quốc và đã thu được 10 000 giống đậu nành khác phục vụ cho mục đích nghiên 
cứu ở Mỹ. 
 Năm 1920, tiến sĩ John Harvey Kellogg đã đề ra sự thay thế đậu nành vào bữa ăn 
và sữa đậu nành cho người tiêu dùng. Tuy nhiên nông dân Mỹ đã không nắm bắt thời cơ 
cho tới khi những cánh đồng đậu nành ở Trung Quốc bị tàn phá trong thế chiến thứ II và 
cuộc nội chiến ở Trung Quốc năm 1940. 
Ngày nay đậu nành đã trở nên phổ biến và được trồng ở rất nhiều nước trên thế 
giới. 
Cây đậu nành có 4 loại lá : hai lá mầm, hai lá đơn, lá có ba lá chét và lá gốc. Nốt 
sần là phần vỏ rễ phình ra và trong đó có vi khuẩn Rhizobium japonicum sinh sống. Vi 
khuẩn này hình gậy, sống trong đất, có khả năng đi vào rễ và cố định đạm từ khí trời. 
Một cây đậu có khoảng vài trăm nốt sần phân bố trên các rễ ở độ sâu 1m. Vi khuẩn 
thường xuyên xâm nhập vào rễ, ở phần giữa đỉnh rễ và lông hút nhỏ nhất, tạo thành một 
chuỗi nhiễm là một ống có lỗ hở. Mỗi vi khuẩn được bao bọc một màng tạo thành túi, 
nếu vi khuẩn đi vào chất nguyên sinh của tế bào rễ mà không được bọc một màng thì nó 
sẽ tạo thành nốt sần không có tác dụng. Ở trong túi, vi khuẩn nhân nhanh cho tới khi một 
vài vi khuẩn hoặc dạng vi khuẩn được hình thành. Nốt sần có tập tính sinh trưởng hữu 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 3 
hạn và bám vào rễ, phần giữa nốt sần là tế bào nhu mô đầy túi Bacteroids. Túi Bacteroids 
chiếm 80% thể tích tế bào, còn lại 20% là nguyên sinh chất và các thành phần khác. Phần 
giữa của Bacteroids là những tế bào không bị nhiễm vi khuẩn và phân chia mạnh tạo 
thành ống dẫn (nơi trao đổi giữa tế bào chủ và Bacteroids cố định đạm. Nốt sần có thể 
tăng trưởng đến 60 ngày thì bắt đầu giảm tuổi thọ từ giữa và tiến dần ra ngoài, cuối cùng 
bị thối. Đạm được cố định ở Bacteroids. Enzyme nitrogenase nằm ở Bacteroids chứa từ 
2-5% tổng số đạm của nốt sần, nó có 2 ngăn : ngăn 1 chứa Mo-Fe-protein gọi là 
dinitrogenase và ngăn 2 là Fe-protein gọi là dinitrogenase reductase. Trong quá trình cố 
định đạm sinh ra H2 . Leghaemoglobin có ở trong nguyên sinh bao quanh Bacteroids và 
ở vỏ của Bacteroids, có vai trò đưa oxy vào mô nốt sần. Sản phẩm đầu tiên của cố định 
đạm là NH3 do vi khuẩn Brady Rhizobium japonicum tiết ra hầu hết. NH3 sau đó chuyển 
hóa vào glutamin và glutamate ở cylosol tế bào chủ, các nhà khoa học cũng cho rằng 
NH3 oxi hóa thành NO3
- ở trong Bacteroids. 
Đậu nành thuộc nhóm vận chuyển ureide, allatoin và allansoic acid là dạng đạm 
chính được chuyển hóa từ nốt sần vào cây. Ureide thủy phân thành urê và glyoxylate 
dưới sự xúc tác của allantoinase và allantoicase cho thấy trong quá trình chuyển hóa của 
allantoase dưới xúc tác của allantoicase. Allantoicase được hình thành được hình thành 
dưới xúc tác của ureidoglycolase, nó chuyển thành glyoxylate và ha i phân tử urê tiếp 
theo lại được chuyển hóa do men urease thành amin acid. Urease có mặt trong các bộ 
phận của cây. Hoạt tính urease bị ức chế do thiếu nitơ nhưng Ni kích thích hoạt tính của 
urease, khi thiếu Ni dù đậu trồng ở điều kiện có nitơ, NO3
- hay NH4 thì hiện tượng bị độc 
do urê có thể xảy ra, do đó urê là sản phẩm của quá trình chuyển hóa nitơ trong điều kiện 
cố định hay không cố định đạm. 
Cây đậu nành cho nhiều hoa nhưng tỷ lệ hoa không thành quả chiếm 20-80%. 
Đậu nành có hoa dạng cánh bướm đặc trưng, ống đài năm cánh không bằng nhau. Tràng 
hoa gồm cánh hoa cờ phía sau, hai cánh bên và hai cánh thìa phía trước tiếp xúc nhau 
nhưng không dính vào nhau. Bộ nhị gồm 10 nhị chia làm hai nhóm, nhóm 1 gồm 9 nhị 
và cuống dính với nhau thành một khối, nhóm 2 chỉ có một nhụy hoa, nhụy hoa có một 
là noãn. Vòi nhụy cong về phía nhị. 
Hạt đậu nành cũng như hạt của nhiều loại họ đậu khác là không có nội nhũ mà 
chỉ có một lớp vỏ bao quanh một phôi lớn. Hình dạng hạt có hình cầu, dẹt, dài và oval. Ở 
hạt trưởng thành, đầu của rốn là lỗ noãn, lỗ này được bao phủ bởi một lớp màng. Ở đầu 
kia của rốn là rãnh nhỏ. 
Vỏ đậu nành có 3 lớp : biểu bì, hạ bì và lớp nhu mô bên trong. Do vỏ của lớp tế 
bào mô đậu có lớp cutin che phủ nên sự trao đổi khí không xảy ra, sự trao đổi khí giữa 
phôi và mội trường qua rốn hạt. Những mảnh của nội nhũ bị ép chặt vào vỏ hạt. Lớp 
ngoài nội nhũ gọi là lớp aleuron gồm những tế bào hình lập phương nhỏ chứa đầy đạm. 
Hạt đậu nành có nhiều màu sắc khác nhau : vàng, xanh, nâu, đen, có thể một 
màu, hai màu hay nhiều màu. Một cây có thể có tới 400 quả đậu nành. Một quả chứa từ 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 4 
1-5 hạt (các giống thường từ 2-3 hạt), quả hơi cong có chiều dài từ 2-7 cm. Màu sắc của 
quả phụ thuộc vào sắc tố caroten, xanthophyll, antocyanin. 
I.1.2 Đậu nành ở Việt Nam 
Trước Cách mạng tháng 8/1945, diện tích đậu nành còn nhỏ. Sau khi đất nước thống 
nhất thì diện tích đậu nành đã tăng. Cả nước có 6 vùng sản xuất đậu nành : vùng Đông 
Nam Bộ có diện tích lớn nhất (26,2% diện tích đậu nành cả nước) 
o Miền núi Bắc Bộ (24,7%) 
o Đồng bằng sông Hồng (17,5%) 
o Đồng bằng sông Cửu Long (12,4%) 
o Đồng bằng ven biền miền Trung 
o Tây Nguyên. 
 Trong 10 năm trở lại đây, có hàng loạt giống đậu nành được nhập từ nước ngoài, 
thích nghi tốt trong điều kiện Việt Nam. Một số được chon từ các tổ hợp lai hữu tính và 
sử dụng đột biến. Có thể phân chia thành các nhóm giống chính như sau 
Bảng 1.1 : Một số giống đậu nành ở Việt Nam 
Giống 
Thời gian 
sinh 
trưởng 
(ngày) 
Đặc điểm 
Khối lượng 
(100 hạt ) 
Năng suất 
(tạ/ha) 
VỤ 
XUÂN 
VX92 90-95 
Hoa trắng, hạt vàng 
sang 
14-16g 18-22 
TL57 100-110 Hoa trắng, hạt vàng 15-16 15-20 
ĐN42 90-95 
Hoa tím, hạt tròn, vàng 
sang 
13-14 14-16 
AK06 93-95 Hoa tím, hạt vàng sáng 16-18 25-30 
ĐT2000 100-110 Hoa tím, nhiều đốt 14-15 30-40 
VỤ 
HÈ 
M103 85 Hoa tím, hạt vàng sáng 18-20 17-20 
DT84 80-85 Hoa tím, hạt vàng sáng 18-22 15-30 
ĐT93 80-82 
Hoa tím, chín có màu 
vàng 
13-14 15-30 
ĐT12 71 
Hoa trắng, là hình tim 
nhọn 
17-19 17-20 
VỤ 
THU 
ĐÔNG 
VX93 85-90 
Hoa trắng, quả nâu, hạt 
vàng 
15-16 16-20 
AK05 90-95 
Hoa trắng, cây cao 40-
45cm 
13-15 16-23 
DT95 90-97 Hạt vàng, rốn nâu đen 15-16 15-30 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 5 
D96-02 95-110 Hoa tím, hạt vàng nhạt 15-18 15-18 
ĐT21 95-100 Hoa tím, hạt vàng 20-22 20-28 
TỈNH 
PHÍA 
NAM 
MTD176 80-85 * * 12-15 
HL25 80 * 12-14 11-15 
VDN1 80-85 * 15-16 18-20 
HL-2 80 * 12-14 18-20 
I.2 Thành phần hóa học hạt đậu nành 
I.2.1 Thành phần hóa học 
o 8% nước 
o 5% chất vô cơ 
o 15-25% glucose 
o 15-20% chất béo 
o 35-45% chất đạm với đủ các loại amino acid cần thiết (isoleucin, lysin, 
methionin, pheny lalanin, tryptophan, valin) 
o Nhiều sinh tố, khóang chất, Ca, Fe, Mg, P, K, Na, S 
o Các vitamin A, B1, B2, D, E, F, các enzyme, sáp, nhựa, cellulose 
Bảng 1.2: Thành phần hoá học của hạt đậu nành 
Thành phần 
Tỷ lệ khối 
lượng 
Tỷ lệ phần trăm (%) 
Protein 
Nx6.25 
Lipid Cacbohydrate Tro 
Lá mầm 90 43 23 43 5 
Vỏ 8 9 1 86 4.3 
Trụ dưới lá 
mầm 
2 41 11 43 4.4 
Nguyên hạt 100 40 20 35 4.9 
Bảng 1.3: Thành phần hydratcacbon trong đậu nành 
Cellulose 
Hemicellulose 
Stachyose 
4.0% 
15.4% 
3.8% 
Raffinose 
Saccharose 
Các loại đường khác 
1.1% 
5.0% 
5.1% 
 Bảng 1.4: Thành phần amino acid có trong protein đậu nành 
Amino acid 
Hàm lượng aa 
(g/100 g protein) 
Isoleucine 4.54 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 6 
Leucine 
Lysine 
Methionine 
Cystine 
Phenylalanine 
Tyrosine 
Threonine 
Tryptophan 
Valine 
7.78 
6.38 
1.26 
1.33 
4.94 
3.14 
3.86 
1.28 
4.80 
Bảng 1.5: Thành phần acid béo trong đậu nành 
Acid béo Ký hiệu % khối lượng 
Lauric 
Myristic 
Palmitic 
Stearic 
Oleic 
Linoleic 
Linolenic 
12:0 
14:0 
16:0 
18:0 
18:1 
18:2 
18:3 
4.5 
4.5 
11.6 
2.5 
21.1 
52.4 
7.1 
Bảng 1.6: Hàm lượng các chất khoáng trong đậu nành 
Canxi 
Photpho 
Mangan 
0.16 – 0.47% 
0.41 – 0.82% 
0.22 – 0.24% 
Kẽm 
Sắt 
37mg/kg 
90 – 150g/kg 
Bảng 1.7: Hàm lượng các vitamin trong đậu nành 
Thiamin 
Riboflavin 
Niacin 
Pyridocin 
Biotin 
Acid tantothenic 
11 – 17.5mg/kg 
3.4 – 3.6 
21.4 – 23 
7.1 – 12.0 
0.8 
13 – 21.5 
Inoxton 
Acid folic 
Vitamin A 
Vitamin E 
Vitamin K 
1.9 
2300 
0.18 – 2.43 
1.4 
1.9 
I.2.1 Protein đậu nành 
Protein bao gồm : 
o Protein dự trữ (globulin) có thể bị thủy phân trong thời gian hạt nảy mầm để làm 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 7 
chất dinh dưỡng cho phôi sinh trưởng. 
o Protein cấu trúc (protein chức năng) như ezyme và chất kiềm hãm enzyme thì 
thường được định vị trong phần còn lại của tế bào. 
Trong hạt còn có một lượng nhỏ các hợp chất như oestrogen, goitrogen, fitat, saponin, 
sterol…Các hợp chất này và một số oligosaccharide không có lợi. 
 Bằng phương pháp siêu ly tâm, người ta đã tách được bốn đoạn 2,7,11,15. Các 
globulin 7S và 11S chiếm trên 70% tổng lượng protein của hạt. Phương pháp này được 
phát triển những năm 1970. 
Protein đậu nành được phân ra : 
o Globulin 2S (gồm chất kiềm hãm trypsin, cytochrome c) chiếm 35% trọng lượng 
protein của hạt. 
o Globulin 11S (glycinin) được cấu tạo nên từ 12 tiểu phần (subunits) tương đối ưa 
béo : 6 tiểu phần có tính acid A và 6 tiểu phần có tính kiềm B. Trong phân tử có 
từ 42-46 nguyên tử lưu huỳnh dưới dạng các cầu disulfua nối các dưới đơn vị hay 
trong nội bộ một tiểu phần. Glycinin dễ dàng bị phân ly thành các dưới đơn vị 
của mình khi gia nhiệt tới 800C ở lực ion thấp. 
o Globulin 7S là conglycinin thường chiếm 35% trọng lượng protein của hạt, là 
một glucoprotein. Phân tử cấu tạo nên từ 3 tiểu phần có tính acid : , ’ và . Các 
tiểu phần , ’ có thành phần acid amin rất giống nhau, thiếu cystein và cystine. 
Dưới đơn vị không chứa cystein và methionine. Trong đoạn 7S còn có các 
hemaglutinin (lectin) mà phân tử của chúng có thể tạo thành phức bền với các 
hợp chất glucid, nó còn có các chất kiềm hãm protease như antitrypsin Kunitz… 
Ngoài phương pháp trên, người ta còn sử dụng phương pháp Sodium Dodecyl Sulfate 
Polyacrylamide Gel Electrophoresis (SDS-PAGE), thuốc nhuộm CBB G250 để tách 
được các globulin 7S và 11S ở một số cây đậu ở Mỹ và Nhật. 
Khi đun nóng dung dịch conglycinin loãng, pH = 7-8, lực ion yếu, đến 1000C thì 
các phân tử của chúng sẽ phân ly thành các tiểu phần không có hiện tượng tập hợp phân 
tử. 
Ở pH = 7-7,6 và lực ion 0,2-0,4 thì các phân tử cũng phân ly thành các dưới đơn vị 
nhưng sau đó tập hợp lại. 
Khi đun dung dịch protein đậu nành 1% đến 950C, pH = 7, không có các chất khử và 
các lực ion khác nhau thì quá trình tập hợp sẽ thuận lợi khi lực ion tăng từ 0 đến 2. Tốc 
độ tập hợp sẽ tăng trong pH = 4-6 nhưng sẽ gần bằng 0 nếu pH acid hoặc kiềm. 
Dung dịch protein đậu nành đậm đặc được đun nóng ở pH gần trung tính sẽ tạo gel. 
Khi lực ion yếu thì trạng thái này sẽ xảy ra từ 700C, thời điểm mà conglycinin giãn 
mạch. Độ cứng của gel sẽ giảm cùng với nồng độ NaCl, các gel protein thường không 
chịu được sự thanh trùng. Ở pH = 5,5 hay thêm ion Ca2+ làm đông tụ protein thành 
những khối. Cả glycinin và conglycinin đều bị biến tính khi tiếp xúc với hỗn hợp nước 
– ethanol có hàm lượng rượu trên 20% theo thể tích. Rượu càng kỵ nước thì sự giãn 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 8 
mạch protein càng nhanh và độ cứng của gel càng lớn. 
I.3 Thành phần dinh dưỡng hạt đậu nành 
Thành phần dinh dưỡng của sữa đậu thành có nhiều điểm tương tự với sữa bò. 
o Sữa đậu nành có lượng protein cao gần bằng sữa bò, nhưng ít canxi hơn sữa bò. 
Sữa đậu nành có ưu điểm là không có lactose, có thể thay thế sữa bò cho những 
người bị dễ bị đau bụng do lactose. Sữa đậu nành cũng chứa ít chất béo bão hòa 
hơn sữa bò, có thể có lợi cho tim mạch hơn. 
o Đậu nành có tỷ lệ protit và lipit vượt xa lượng chất dinh dưỡng có trong thịt, 
nhiều nhất vẫn là protein. Người ta thấy rằng protein động vật vừa khó hấp thu, 
vừa để lại những hợp chất cặn xấu cho cơ thể, làm suy thoái nhanh và gây ra 
nhiều chứng bệnh nan y, ngược lại protein đậu nành có lợi cho cơ thể, không để 
lại những hợp chất gây bệnh, lại có đặc tính đặc biệt về khả năng kết hợp với các 
prorein từ ngũ cốc, ở một mức độ nào đó, bổ sung cho nhau để tạo ra nhiều loại 
dưỡng chất tương ứng với nguồn gốc từ động vật như protein trong trứng, cá và 
nhiều loại khác. Vì thế mà khi protein đậu nành dùng thay thế protein động vật 
làm giảm những khiếm khuyết mà protein động vật gây ra, đồng thời nhờ tính kết 
hợp, cung cấp cho cơ thể nhiều hợp chất phong phú đáp ứng quá trình trao đổi 
chất trong cơ thể. 
o Chất béo không bão hoà chiếm 60% so với bão hoà là 15%, trong đó có 2 loại 
axit linolenic và linolic ảnh hưởng tốt lên hệ tuần hoàn và phòng được ung thư. 
o Chất xơ của đậu nành gồm hai loại: xơ không tan ở phần vỏ bao (cellulose, 
lignin) và xơ tan ở phần đậu (pectin, gum). 
o Nhiều hợp chất khác có trong đậu nành có tính dược lý cao, được các nhà khoa 
học lần lượt khám phá và họ đã khẳng định chúng có khả năng ngăn chặn hữu 
hiệu bệnh tim mạch, làm tăng khả năng chịu đựng các hoạt động cơ bắp, giảm 
khối lượng mỡ, giữ cho cơ thể thon thả và khoẻ mạnh. 
o Trong hạt đậu nành rất giàu vitamin A, E, K cùng với khoáng chất potassium sắt, 
kẽm và phốt pho bổ sung đảm bảo cho cơ thể có đầy đủ dưỡng chất. 
I.4 Chỉ tiêu chất lượng 
 Thông thường, chất lượng của đạm được đánh giá dựa vào thành phần acid amin 
thiết yếu. Có tất cả 20 loại acid amin, nhưng trong đó chỉ có 8 loại là thiết yếu mà cơ thể 
không tự tổng hợp được, phải lấy từ nguồn thực phẩm ăn vào. Loại đạm nào có sự phân 
bố thành phần 8 acid amin thiết yếu giống với đạm của cơ thể thì được xem là đạm có 
chất lượng tốt. 
 Người ta đã dùng các chỉ số BV (Biochemical Value) hoặc NPU (Net Protein 
Utilisation) để đo lường chất lượng của đạm. Các chỉ số này càng cao có nghĩa là đạm ăn 
vào có khả năng được giữ lại cơ thể càng nhiều để tổng hợp thành đạm cơ thể. So với các 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 9 
nguồn đạm thực vật khác, đạm đậu nành có chỉ số BV cao hơn cả. Nhưng so với đạm của 
các nguồn động vật như: trứng, thịt, cá, sữa thì đạm đậu nành có chỉ số BV thấp hơn. Đó 
là do đạm đậu nành thiếu hụt thành phần methionin. 
BV của protein isolate là 74. 
NPU của protein đậu nành là 61. 
I.5 Các sản phẩm thực phẩm từ đậu nành: 
Do đậu nành có chứa nhiều thành phần dinh dưỡng, giúp ích cho con người trong 
việc bổ sung lượng protein và lipid cần thiết cho cơ thể, nên được ứng dụng rất nhiều 
trong các lĩnh vực khác nhau: y dược, nông nghiệp, chăn nuôi, công nghiệp… 
Tuy nhiên khả năng ứng dụng của đậu nành được sử dụng nhiều nhất là trong 
thực phẩm. Thực phẩm chế biến từ đậu nành có thể chia làm 2 nhóm lớn: 
 Nhóm thực phẩm không lên men: 
 Sản phẩm sữa đậu nành. 
 Cà phê sữa đậu nành. 
 Đậu phụ. 
 Các loại bánh nướng. 
 Bột dinh dưỡng cho trẻ em. 
 Các sản phẩm giả thịt, lạp xưởng. 
 Nước tương hoá giải. 
 Các chất chiết từ protein đậu nành. 
 Nhóm thực phẩm có lên men: 
 Chao 
 Nước tương lên men. 
 Tương. 
 Miso. 
 Tempeh. 
 Đạm tương. 
I.6 Tổng quan về sản phẩm Protein Isolate: 
I.6.1 Định nghĩa : của Association of American Feed Control Officials, Inc. (AAFCO) 
thì SPI được sản xuất từ bột đậu nành đã tách vỏ, tách béo và loại hết những phần không 
phải là protein và chứa ít nhất là 90% protein trên hàm lượng chất khô. 
Hình 1.2: Soy protein isolate dạng bột 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn 
 10 
 Protein đậu nành là một sản phẩm được chế biến bằng cách trích ly protein từ đậu 
nành với hàm lượng protein cao (>90%), để cung cấp cho các nhà máy chế biến các sản 
phẩm thịt. 
Protein đậu nành có tính năng cải thiện cấu trúc hay tạo cấu trúc trong các dạng 
sản phẩm khác nhau (dạng gel, nhũ tương...), có khả năng giữ nước, liên kết các thành 
phần chất béo, protein...nhanh chóng nên được đưa vào trực tiếp trong quá trình tạo nhũ 
tương. 
 Protein isolate là protein đậu nành có hàm lượng protein cao nhất, được làm từ 
quá trình trích ly hạt đậu nành, loại bỏ hầu hết chất béo và carbohydrate. Kết quả thu 
được là sản phẩm chứa trên 90% protein. Vì vậy protein isolate có mùi vị trung tính so 
với các sản phẩm protein đậu nành khác. Protein isolate từ đậu nành được sử dụng phần 
lớn trong công nghiệp thực phẩm. 
I.6.2 Ứng dụng trong công nghiệp của protein islolate 
 Protein isolate được sử dụng trong công nghiệp thực phẩm với mục đích dinh 
dưỡng (tăng hàm lượng protein trong sản phẩm), cảm quan (ngon miệng hơn, hợp khẩu 
vị hơn) và những lý do chức năng (cần thiết cho sự chuyển thành thể sữa, sự hấp thụ 
nước, chất béo, chất kết dính) 
 Protein isolate được sử dụng trong công nghiệp sản xuất các sản phẩm sau: 
o Snacks 
o Thức ăn nhanh từ ngũ cốc 
o Thực phẩm nướng 
o Kem, sản phẩm bơ sữa. 
o Công nghệ sản xuất thịt cá… 
Sản xuất protein isolate từ đậu nành GVHD: PGS.TS Lê Văn V