Đề tài So sánh giữa quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối

Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dân tộc ta. Người sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học, khoa cử và được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha, một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Chính từ đây Người đã chắt lọc những giá trị tốt đẹp về tư tưởng nho học.Một trong những tư tưởng đầy tiến bộ đó là tư tưởng thân dân hay lấy dân làm gốc.

doc20 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2404 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài So sánh giữa quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dàn ý bài viết A. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh . I. Nguồn gốc quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh . II. Quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh . III. So sánh giữa quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối. B. Thực tiễn . I. Nhận thức của Đảng về tư tưởng thân dân . II. Những hoạt động thực tiễn thể hiện tư tưởng thân dân. C. Nhận thức của bản thân. Khai triển tư tưởng. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dân tộc ta. Người sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học, khoa cử và được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha, một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Chính từ đây Người đã chắt lọc những giá trị tốt đẹp về tư tưởng nho học.Một trong những tư tưởng đầy tiến bộ đó là tư tưởng thân dân hay lấy dân làm gốc. I. Nguồn gốc quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh 1.Tư tưởng thân dân trong Nho giáo. Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo với hạt nhân là đường lối “Đức trị”. Tuy nhiên, phải đến Mạnh Tử đường lối “Đức trị” mới được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối nhân chính (chính trị nhân nghĩa). Khổng Tử quan niệm: “ Làm chính trị( trị dân) mà dung đức( để cảm hóa dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả(tức thiên hạ về theo). Tư tưởng “Đức trị” biểu hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Dưỡng dân, theo Khổng Tử trước hết là phai làm cho dân no đủ. Ông coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hóa dân nữa. Dưỡng dân còn phải biết “sử dân dĩ thời” tức là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể. Có thể khẳng định đường lối “Đức trị” của Khổng Tử là “lấy nhân đạo làm gốc, lấy hiếu-đễ, lễ- nhạc làm cơ bản cho sự giáo hóa, lấy việc thực hiện chính sách “thân dân” làm cơ sở … nhằm tạo ra một xã hội phong kiến theo điển chế có tôn ti, trật tự. Đến thời đại của Mạnh Tử là thời chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng được giải phóng mạnh mẽ. Có thể khẳng định với Mạnh Tử, học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sang lập đã phát triển nâng lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường lối “nhân chính” của Mạnh Tử. Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng “dân tín”, coi đó là điều quan trọng nhất không thể bỏ được trong phép trị nước, , thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: "Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng... hễ được dân chúng tự nhiên sẽ được thiên hạ... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng". Ông nói: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ "báo dân" và khuyến cáo các bậc vua chúa: "Nếu người bực trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bực quốc trưởng mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng có bề hưng vượng đó". Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ". Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng "sử dân dĩ thời" của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề xuất một đường hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của dân, "nếu bậc quốc trưởng làm cho việc ruộng nương được dễ dàng (đừng bắt họ làm xâu lúc cày cấy gặt hái) và bớt thuế má cho dân, thì dân trở nên phú túc... bực thánh nhân cai trị thiên hạ, khiến ai nấy đều có đủ ruộng và lúa, cũng như họ có đủ nước và lửa vậy. Nếu dân chúng có bề phú túc về đậu và lúa cũng như họ có đủ về nước và lửa thì họ còn ăn ở bất nhân làm chi". Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa đối với dân chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường lối nhân chính. Trong đường lối nhân chính ngoài việc lấy nhân nghĩa làm gốc, coi “dân là quý” , thi hành chế đọ điền địa và thuế khóa công bằng, Mạnh Tử còn chủ trương phải giảm nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hóa dân. Tóm lại, đường lối “Đức trị” trong Nho giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm gốc, coi trọng vai trò của dân. Học thuyết này chứa đụng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo tiên Tần và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu. 2.Tư tưởng thân dân trong các triều đại Việt Nam Tư tưởng tiến bộ này không chỉ có trong nền Nho học, mà tư tưởng này còn được thể hiện ở rất nhiều bậc đi trước. Nếu đọc lại Chiếu dời đô, ta thấy Lý Công Uẩn đã trình bày trước đại chúng về đạo quản lý đất nước của nhà cầm quyền. Đó là việc triều đình luôn nhằm mục đích vì nước vì dân, vì lợi ích lâu dài của đất nước, của dân tộc. Di chúc Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh "khoan thư sức dân". Nhà cầm quyền thời bình, nhiệm vụ quan trọng nhất là phải lo cho đời sống của dân, cấm kỵ nhất là làm cho dân thêm khổ cực, có như vậy thì vào thời chiến mới đủ người, đủ của, đủ ý chí để bảo vệ biên cương. Cho nên, khi chiến thắng rồi các triều Lý - Trần không bắt dân lên núi xẻ đá, vào rừng đẵn gỗ, xuống biển mò ngọc để xây dựng cung điện, đền đài, lăng tẩm... Bởi Việt Nam không có cái kiểu văn minh dùng xương máu của dân để xây lên những cung điện, đền đài nguy nga vĩ đại. Điều này được minh chứng rất rõ khi vua Lý Nhân Tông lúc sắp lâm chung vẫn không thôi lo lắng cho quốc gia, dân tộc, cảm thông với dân. Di chiếu Người để lại: "Trẫm nhắm mắt, việc tang chế trong ba ngày phải bỏ áo chở, thôi hẳn xót thương, việc chôn cất cứ theo lối tằn tiện, không nên xây lăng mộ riêng". Các triều đại Việt Nam độc lập trong lịch sử đều "Lấy dân làm gốc" trong việcban hành các chủ trương, chính sách, từ kinh tế, xã hội, văn hoá, luật pháp đến an ninh,quốc phòng, ngoại giao... Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách "Khoan, giản, an, lạc"; triềuLý có chính sách "Ngụ binh ư nông"; triều Trần có "Khoan, thư sức dân" , "Chúng chí thành thành" và nổi tiếng với Hội nghị Diên Hồng; triều Lê quan niệm "Dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền", nên vai trò, vị trí người dân được luật hoá trong Bộ luật Hồng Đức. Trong tập "Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến ngày nay" của Giáo sư, Tiến sĩ Pi-e Ri-sa Fe-ray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Á Đông ngày nay (CERAC) của nước Pháp, trong chương I nhan đề " Nước Việt Nam cổ xưa hay sự chinh phục của tính cách Việt Nam" có một đoạn viết khá hấp dẫn về nhà Lê và nhà văn hoá Nguyễn Trãi:" Triều đại nhà Lê (Lê sơ, 1428 -1527) do một chủ đất bình thường là Lê Lợi sáng lập. Ông trở thành Hoàng đế dưới danh hiệu Lê Thái Tổ (1428-1433), được một nhà nho, nhà văn, nhà chiến lược, nhà chính khách tài ba là Nguyễn Trãi giúp đỡ. Lê Lợi đã điều hành một cuộc chiến tranh giải phóng quốc gia thật mẫu mực, cho đến ngày nay, triều đại ông lập nên vẫn còn là một trong những triều đại được hâm mộ và có tiếng tăm lừng lẫy nhất. Nhưng các vua Lê còn làm được những việc hơn thế nữa, bằng Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông (1470 - 1497) soạn thảo, các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí "con người Việt" trong tổng thể các mối quan hệ xã hội". Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc tư tưởng "Lấy dân làm gốc" của dân tộc ta, trong "Điều 294: Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội biếm hay bãi chức". Tính chất nhân đạo - "Lấy dân làm gốc" được nêu trong điều này của Bộ luật Hồng Đức chỉ xuất hiện ở châu Âu mấy thế kỷ sau đó, khi nổ ra cách mạng tư sản . Đỉnh cao của tư tưởng coi trọng nhân dân trong thời kì phong kiến phải kể đến Nguyễn Trãi. Tư tưởng coi trọng nhân dân của ông được thể hiện qua tư tưởng nhân nghĩa. Là một trong những lãnh tụ hàng đầu của nghĩa quân Lam Sơn và sau đó giữ các chức quan đầu triều của nhà Lê sơ, Nguyễn Trãi cần phải có quan niệm về vai trò của con người, cách khai thác, phát huy nguồn lực con người để có thể tiến hành thắng lợi nhiệm vụ chính trị đặt ra. Tư tưởng của ông về vấn đề này thể hiện trên mấy điểm chủ yếu như xem dân là gốc của nước, tôn trọng cộng đồng, bồi, dưỡng tư tưởng cộng đồng. Nguyễn Trãi nhận thức rất rõ vai trò vả sức mạnh của dân. Dân là số đông, là lực lượng có vai trò quyết định đối với thắng lợi của kháng chiến, đối với sự tồn tại hay bị phế truất của một triều đại. Trong Chiếu răn bảo Thái tử, thay lời vua Lê, ông viết: "Mến người cố nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân", "Thuyền bị lật mới tin rằng dân như nước". Từ đó, Nguyễn Trãi cho rằng mọi chủ trương, đường lối, mọi quan hệ đối xử của triều đình đều phải căn cứ vào lòng dân. Dân đồng lòng thì có sức mạnh. Vì vậy, việc gì hợp lòng dân thì làm, việc gì không được dân ủng hộ thì bỏ, không được trái lòng dân. Để dân đồng lòng, theo Nguyễn Trãi, cần phải cố kết họ lại bằng tình thương, bằng đối xử công bằng về quyền lợi, chăm lo đến nguyện vọng, lợi ích chính đáng của họ. Đây là quan niệm rất đúng đắn của Nguyễn Trãi, mặc dù ông chưa đặt ra được vấn đề mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”. Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử… đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý – Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tiếp sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Kế thừa tư tưởng nhân đạo của các thế hệ nhà Nho đi trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương một đường lối vương đạo cho phép khai thác nguồn lực xã hội từ đội ngũ những người cầm quyền đến sức mạnh dân chúng. Đặc điểm lớn trong đường lối vương đạo Khiêm là đường lối đó dựa vào nhân nghĩa, lấy nhân nghĩa để cảm hóa, tập hợp mọi lực lượng xã hội chứ không dựa cả vào Tam cương, Ngũ thường để ràng buộc con người. Đường lối nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm có lập trường thân dân, coi dân là gốc của nước. Kế thừa tư tưởng của người xưa ông viết: "Trời sinh ra chúng dân, sự ấm no ai cũng có lòng mong muốn cả" (Duy thiên sinh chúng dân, Bão noãn các hữu dục). "Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cất phải được lòng dân" (Cổ lai quốc dĩ dân vi bản. Đắc quốc ưng tri tại đắc dân - Cảm hứng). Làm thế nào để có dân làm gốc, để được lòng dân là vấn đề không đơn giản, không phải lúc nào người cầm quyền cũng có thể thực hiện được. Dưới chế độ tư hữu phong kiến, lợi ích vật chất gắn liền với địa vị, điều đó dễ làm cho các bậc vua chúa, quan lại lợi dụng chức quyền vơ vét của cải để làm giàu. Kế thừa tư tưởng người xưa về nguyên lý "tài tụ, nhân tán" Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên những người cầm quyền rằng muốn có bình trị thì không được tham lam, đừng vì tiền bạc mà mất đi lòng nhân nghĩa vì không có nhân nghĩa sẽ mất lòng dân: "Người xưa câu ví đâu có lầm, lấy thuở dương mà biết thuở âm. Yên bách tính thì yên trị đạo, thất thiên kim chớ thất nhân tâm". Mặt khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm yêu cầu nhà cầm quyền phải chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là dân nghèo. Trong bài Cảm hứng ông viết: "Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân". II.Nội dung cơ bản tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh Thân dân; là nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra được viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân phát triển; là biết Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, là thân dân. Vậy thì vì sao ta phải “Thân dân”? Hồ Chí Minh giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe, làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết được họ đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ đang mong đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân. Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân. Theo Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan” và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không phải vì lợi ích của quần chúng. Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền, nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”, không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”. Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ của Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Là lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Bởi vì: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”. Trong Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc” của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này. Chính những tư tưởng của Người về vấn đề thân dân đã chỉ đạo cho hoạt động cách mạng của chúng ta trong việc huy động sức mạnh vật chất và tinh thần phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng mối quan hệ đoàn kết toàn dân. Hiện nay, đại đa số cán bộ, đảng viên ta đã nhận thức và làm tốt việc coi trọng nhân dân, vì nhân dân phục vụ, làm cho kinh tế, văn hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện... III.So sánh quan điểm “thân dân” của Hồ Chí Minh với các bậc tiền bối Tìm hiểu quan điểm “thân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy có những điểm tương tự với quan điểm trên đây của Nho gia. Điều đó cũng dễ hiểu, vì Người được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha, một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Nhưng so với tư tưởng của Nho gia thì quan điểm “than dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều điểm khác về căn bản. Trước hết nói về những điểm gặp nhau giữa Nho gia và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan điểm “thân dân”.  Điểm thứ nhất là thái độ quý trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của dân. Về điều này, Mạnh Tử đã có câu nói lịch sử: “Dân là quý, sau mới đến xã tắc, vua thì xem nhẹ” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Tuân Tử cũng có c
Tài liệu liên quan