Phẫu thuật đục thủy tinh thể và đặt kính nội nhãn đã có những bước tiến vượt 
bậc trong hai thập ni ên qua. Thêm vào đó, ngày nay số lượng người bị lão thị 
trong dân số rất lớn và có nhu cầu điều chỉnh lão thị ngày càng nhiều. Kính nội 
nhãn trước đây được thiết kế với mục đích là đem lại thị lực nhìn xa cho người 
bệnh được gọi là kính nội nhãn đơn tiêu. Loại kính này không thể điều tiết như 
mắt người bình thường được nên bệnh nhân có thể nhìn xa rõ nhưng khi nhìn 
gần phải có kính đọc sách hỗ. Trongnhững năm gần đây đã xuất hiện nhiều 
loại kính nội nhãn mới có nhiều cải tiến nhằm giải quyết phần nào hiện tượng 
lão thị khi thay thế thủy tinh thể tự nhiên sau phẫu thuật với mục đích giảm tỷ 
l ệ phụ thuộc kính cho người bệnh. Tại Bệnh viện Mắt TP.HCM, kính n ội nhãn 
giả điều tiết AcrySof ReStor được đưa vào sử dụng từ cuối năm 2005 và có kết 
quả ban đầu rất khả quan
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
. Một 
đặc điểm đáng lưu ý là loại kính giả điều tiết này được sản xuất dựa trên loại 
kính nền là AcrySof SA60AT mà đây cũng là một trong những loại kính nội 
nhãn mềm đơn tiêu được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới và đã cho kết quả 
rất tốt và ổn định
(Error! Reference source not found.)
.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật đặt kính nội 
nhãn AcrySof ReStor ở bệnh nhân đục thủy tinh thể và so sánh với loại kính 
nền là AcrySof SA60AT nhằm đánh giá một cách khách quan nhất về hiệu quả 
những thay đổi trong thiết kế kính.
Ngoài ra, do thiết kế mới để có thể giúp nhìn xa và g ần bao gồm những vùng 
nhiễu xạ, kính AcrySof ReStor sẽ làm giảm độ nhạy tương phản và cũng như 
các loại kính đa tiêu khác gây cho bệnh nhân những than phiền thị giác ở mức 
độ nhất định. Chúng tôi muốn lượng giá kết quả thị lực, mức độ giảm độ nhạy 
tương phản và các than phiền thị giác ảnh hưởng tới cuộc sống của người bệnh 
sau phẫu thuật.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài So sánh kết quả thị lực và độ nhạy tương phản giữa Acrysof Restor và Acrysof đơn tiêu tại bệnh viện mắt tp. Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SO SÁNH KẾT QUẢ THỊ LỰC VÀ ĐỘ NHẠY TƯƠNG PHẢN GIỮA 
ACRYSOF RESTOR VÀ ACRYSOF ĐƠN TIÊU TẠI BỆNH VIỆN 
MẮT TP. HCM 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá thị lực và độ nhạy tương phản và một số vấn đề liên quan 
giữa hai loại kính AcrySof ReSTOR và AcrySof SA60AT tại Bệnh viện Mắt 
TP. Hồ Chí Minh. 
Phương pháp: Nhóm Đa tiêu gồm 43 mắt, Nhóm Đơn tiêu gồm 55 mắt đục 
thủy tinh thể tuổi già có độ loạn thị nhỏ hơn 1D và không có bệnh lý nào khác 
đi kèm. Kết quả đánh giá sau 3 tháng bao gồm thị lực có kính và không kính xa 
và gần, độ nhạy tương phản, tỷ lệ không phụ thuộc kính và độ nhạy tương 
phản. 
Kết quả: Nhóm Đa tiêu có thị lực xa không chỉnh kính 86% từ 5/10 trở lên và 
thị lực gần không chỉnh kính 88% từ 5/10 trở lên. Hai nhóm Đa tiêu và Đơn 
tiêu có thị lực xa có kính và không kính tương tự nhau nhưng nhóm Đa tiêu trội 
hơn hẳn ở thị lực gần không kính. Độ nhạy tương phản (ĐNTP) trung bình của 
Nhóm Đa tiêu và Đơn tiêu lần lượt là 1,53dB và 1,70dB. ĐNTP của Nhóm Đa 
tiêu giảm có ý nghĩa ở thị tần 18c/d. 
Kết luận: Kính Acrysof Restor cho phép bệnh nhân nhìn cả xa lẫn gần với tỷ 
lệ không phụ thuộc kính là 90%. ĐNTP của Acrysof Restor giảm hơn so với 
Acrysof SA60AT nhưng không ảnh hưởng đến thị giác sinh hoạt của người 
bệnh. 
ABSTRACT 
VISUAL ACUITY AND CONTRAST SENSITIVITY: ACRYSOF RESTOR 
VS. ACRYSOF SA60AT MONOFOCAL INTRAOCULAR LENSES IN HO 
CHI MINH CITY EYE HOSPITAL 
Nguyen Nhu Quan, Tran Thi Phuơng Thu, Nguyen Đo Nguyen 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 65 – 69 
Purpose: To compare the visual acuity and contrast sensitivity in eyes with the 
AcrySof ReSTOR multifocal intraocular lens (IOL) and eyes with the 
monofocal AcrySof SA60AT IOL at the Ho Chi Minh City Eye hospital, 
Vietnam. 
Method: 43 eyes had phacoemulsification cataract extraction and implantation 
of a ReSTOR multifocal IOL in the capsular bag. Inclusion criteria were 
corneal astigmatism less than 1 diopter (D) and no associated ocular disease. A 
complete ophthalmic examination, including uncorrected visual acuity, best 
spectacle-corrected visual acuity, and contrast sensitivity, was performed 3 
months postoperatively. Results were compared with those in 55 eyes with the 
AcrySof monofocal IOL single-piece IOL. 
Results: In the multifocal group, 86% had an uncorrected distance visual 
acuity of 0.5 or better and 88% had an uncorrected near visual acuity at 33 cm 
of 0.5 or better. The multifocal group and monofocal group had similar 
distance uncorrected and best corrected visual acuities; however, the multifocal 
group had significantly better near uncorrected acuity. The mean contrast 
sensitivity values were 1.53 dB in the multifocal group and 1.70 dB in the 
monofocal group. The contrast sensitivity of multifocal group is statistically 
lower at the spatial frequency of 18 cycles/degree. 
Conclusions: The ReSTOR multifocal IOL provided a satisfactory full range 
of vision; 90% of the patients achieved total spectacle independence. Contrast 
sensitivity was lower than with the SA60AT monofocal IOL but does not affect 
patients’ visual perfomance. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật đục thủy tinh thể và đặt kính nội nhãn đã có những bước tiến vượt 
bậc trong hai thập niên qua. Thêm vào đó, ngày nay số lượng người bị lão thị 
trong dân số rất lớn và có nhu cầu điều chỉnh lão thị ngày càng nhiều. Kính nội 
nhãn trước đây được thiết kế với mục đích là đem lại thị lực nhìn xa cho người 
bệnh được gọi là kính nội nhãn đơn tiêu. Loại kính này không thể điều tiết như 
mắt người bình thường được nên bệnh nhân có thể nhìn xa rõ nhưng khi nhìn 
gần phải có kính đọc sách hỗ. Trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều 
loại kính nội nhãn mới có nhiều cải tiến nhằm giải quyết phần nào hiện tượng 
lão thị khi thay thế thủy tinh thể tự nhiên sau phẫu thuật với mục đích giảm tỷ 
lệ phụ thuộc kính cho người bệnh. Tại Bệnh viện Mắt TP.HCM, kính nội nhãn 
giả điều tiết AcrySof ReStor được đưa vào sử dụng từ cuối năm 2005 và có kết 
quả ban đầu rất khả quan(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Một 
đặc điểm đáng lưu ý là loại kính giả điều tiết này được sản xuất dựa trên loại 
kính nền là AcrySof SA60AT mà đây cũng là một trong những loại kính nội 
nhãn mềm đơn tiêu được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới và đã cho kết quả 
rất tốt và ổn định(Error! Reference source not found.). 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật đặt kính nội 
nhãn AcrySof ReStor ở bệnh nhân đục thủy tinh thể và so sánh với loại kính 
nền là AcrySof SA60AT nhằm đánh giá một cách khách quan nhất về hiệu quả 
những thay đổi trong thiết kế kính. 
Ngoài ra, do thiết kế mới để có thể giúp nhìn xa và gần bao gồm những vùng 
nhiễu xạ, kính AcrySof ReStor sẽ làm giảm độ nhạy tương phản và cũng như 
các loại kính đa tiêu khác gây cho bệnh nhân những than phiền thị giác ở mức 
độ nhất định. Chúng tôi muốn lượng giá kết quả thị lực, mức độ giảm độ nhạy 
tương phản và các than phiền thị giác ảnh hưởng tới cuộc sống của người bệnh 
sau phẫu thuật. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây là nghiên cứu tiến cứu, cắt dọc, có nhóm đối chứng, không ngẫu nhiên. 
Trong thời gian từ 12/2006 đến tháng 12/2007 chúng tôi đưa vào nghiên cứu 98 
bệnh nhân (98 mắt) trong đó nhóm Đa tiêu là 43 bệnh nhân còn nhóm Đơn tiêu 
gồm 55 bệnh nhân. Tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân 
bị đục T3 tuổi già có tuổi từ 45 đến 70, loạn thị giác mạc < 1D, hợp tác tốt để 
đo được các chỉ số sinh trắc để tính công suất kính nội nhãn bằng máy IOL 
Master. Riêng đối với nhóm đa tiêu thì bệnh nhân cần phải có mong muốn 
giảm sự lệ thuộc vào kính điều chỉnh do tính chất nghề nghiệp hoặc không 
thích bị phụ thuộc nhiều vào kính điều chỉnh sau khi phẫu thuật. Tiêu chuẩn 
loại trừ bao gồm tất cả những bất thường khác của nhãn cầu và thời gian hậu 
phẫu dưới 3 tháng. 
KẾT QUẢ 
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 54,5 ± 4,3 (45 - 68) đây là khoảng tuổi mà 
bệnh nhân có lão thị đi kèm và có nhu cầu không đeo kính. Trong Nhóm Đa 
tiêu tỷ lệ nữ giới cao hơn so 1,5 lần so với nam giới. Có thể là do nữ giới quan 
tâm đến sức khỏe mình nhiều hơn, có nhu cầu cho những công việc cần nhìn 
gần hơn và đòi hỏi về mặt thẩm mỹ bên ngoài cao hơn nam giới. 
Thị lực trước mổ trung bình của hai nhóm Đa tiêu và Đơn tiêu là 2/10 và không 
có sự khác biệt giữa hai nhóm. 
Thị lực xa không chỉnh kính trung bình của Nhóm Đa tiêu là 7/10 và Nhóm 
Đơn tiêu là 8/10 và sự khác biệt này không có ý nghĩa. Trong đó 86,04% bệnh 
nhân trong Nhóm Đa tiêu và 92,72% trong Nhóm Đơn tiêu có thị lực xa không 
chỉnh kính từ 5/10 trở lên. Thị lực xa có chỉnh kính trung bình của hai nhóm là 
9/10 trong đó Nhóm Đa tiêu có nhỉnh hơn Nhóm Đơn tiêu một chút nhưng sự 
khác biệt này không có ý nghĩa. Sau khi có chỉnh kính thì cả hai nhóm đạt 
100% bệnh nhân có thị lực từ 5/10 trở lên. Như vậy thị lực nhìn xa của hai 
nhóm Đa tiêu và Đơn tiêu đều rất tốt và không khác biệt nhau, tương tự như 
các nghiên cứu trước đây(Error! Reference source not found.). 
Thị lực gần không chỉnh kính trung bình của Nhóm Đa tiêu là > 8/10 và Nhóm 
Đơn tiêu là 3/10 và sự khác biệt này là rất rõ ràng. Khi không có kính điều 
chỉnh có tới 88,37% Nhóm Đa tiêu đạt thị lực ≥ 5/10 trong khi đó tỷ lệ này ở 
Nhóm Đơn tiêu chỉ có 24,45%. Khi có kính điều chỉnh thị lực gần của hai 
nhóm đều đạt 9/10 và không còn khác biệt có ý nghĩa. Như vậy khi không dùng 
kính để nhìn gần thì rõ ràng đa số bệnh nhân Nhóm Đa tiêu đều có thị lực hữu 
ích để làm việc trong khi đó tỷ lệ này ở Nhóm Đơn tiêu rất thấp. Nên lưu ý là 
trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát thị lực gần ở khoảng cách tiêu 
chuẩn là 33 cm. Những bệnh nhân bị đục thủy tinh thể trên 60 tuổi hầu hết đã 
quen với hiện tượng lão thị nên đã cố định khoảng cách đọc sách của mình xa 
hơn ở mức 36 cm (tương ứng với độ kính gọng 2,50 D hoặc 2,75 D). Chính vì 
thế trong thời gian hậu phẫu nếu bệnh nhân than phiền không đọc được sách ở 
khoảng cách cũ thỉ chỉ cần yêu cầu bệnh nhân đọc ở khoảng cách gần hơn 
(khoảng 30 - 33cm) và cho họ đọc thử ở khoảng cách nói trên sẽ giải quyết 
được than phiền hay gặp này(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). 
Biểu đồ 1. Biểu diễn thị lực gần không kính theo nhóm. 
Thị lực gần không chỉnh kính của Nhóm Đa tiêu tốt tương đương với thị lực 
chỉnh kính tốt nhất của Nhóm Đơn tiêu và thị lực này đã cho phép bệnh nhân 
thực hiện được những hoạt động cần thị lực gần mà không cần phải mang kính. 
Điều này lý giải tỷ lệ không phụ thuộc kính trong nghiên cứu của chúng tôi là 
rất cao 90%. Trong Nhóm Đơn tiêu chỉ có một số ít 7,3 % bệnh nhân không 
dùng đến kính là do họ không đòi hỏi quá cao về thị lực xa và khúc xạ hậu 
phẫu có cận thị. Đa số trường hợp khúc xạ hậu phẫu mong muốn là chính thị vì 
thế số lượng bệnh nhân trong Nhóm Đơn tiêu không phụ thuộc vào kính sẽ rất 
ít nếu khúc xạ thực tế hậu phẫu đúng như mong muốn. Lưu ý rằng, nghiên cứu 
gần đây cho thấy kính đơn tiêu cũng có mức điều tiết nhất định khoảng 0,75D - 
0,91D(Error! Reference source not found.). 
Nhóm Đa tiêu có độ nhạy tương phản (ĐNTP) thấp hơn Nhóm Đơn tiêu nhưng 
sự khác biệt về ĐNTP trung bình (log) thì không khác biệt. Ở tần số 18c/ deg 
thì sự khác biệt này mới đáng kể. Trong thực tế thì khác biệt ở thị tần này 
không ảnh hưởng quá nhiều đến cuộc sống của người bệnh do vẫn còn nằm 
trong giới hạn bình thường. Khi thử ĐNTP ánh sáng tốt, các nghiên cứu trong y 
văn trước đây cũng đều chứng tỏ Nhóm Đa tiêu có ĐNTP thấp hơn Nhóm Đơn 
tiêu do cấu trúc quang học của kính nhưng sự khác biệt trong đa số trường hợp 
đều không có ý nghĩa thống kê(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not 
found.). 
Jose Alfonso(Error! Reference source not found.), Montes-Mico(Error! Reference source not found.) 
cũng thực hiện các thử nghiệm ĐNTP ánh sáng tốt đối với bệnh nhân đặt kính 
đa tiêu cho thấy ĐNTP giảm nhưng vẫn nằm trong giới hạn bình thường. 
Chúng tôi cũng rút ra được kết quả tương tự. Sự giảm ĐNTP của kính đa tiêu 
so với kính đơn tiêu là do sự phân bổ của năng lượng ánh sáng giữa hai hay 
nhiều tiêu cự. Kết quả ĐNTP phụ thuộc vào sự khác nhau về nguyên lý hoạt 
động (khúc xạ hay nhiễu xạ) và cấu trúc quang học của kính. Chẳng hạn như 
kính Array SA-40N (AMO) là một kính có 5 vùng khúc xạ phân bố khoảng 
50% năng lượng ánh sáng cho tiêu xa và khoảng 20% cho tiêu gần. Phân bổ 
năng lượng ánh sáng của kính Acrysof ReStor thay đổi theo kích thước đồng tử 
khoảng 40 - 90% cho tiêu xa và khoảng 9 - 40% cho tiêu gần. Sự khác biệt về 
phân bổ năng lượng ánh sáng theo kích thước đồng tử khiến cho kích thước 
đồng tử có vai trò quan trọng đối với kết quả thị giác của kính đa tiêu. Tuy 
nhiên trên thực tế các nghiên cứu cho thấy sự ảnh hưởng này là không nhiều 
như vậy. Có lẽ là do ảnh hưởng của các loại quang sai khác như sắc sai và các 
vùng chuyển tiếp của IOL đã làm giảm bớt đi sự khác biệt này. Nghiên cứu của 
chúng tôi không thử nghiệm ĐNTP ánh sáng kém. Y văn cho thấy ĐNTP ánh 
sáng kém của Kính Đa tiêu giảm xuống nhiều hơn so với ĐNTP ánh sáng tốt 
đặc biệt ở các thị tần cao(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). 
Trong điều kiện ánh sáng kém thì kích thước đồng tử sẽ lớn hơn do đó sẽ làm 
giảm ĐNTP ở các thị tần cao do các quầng mờ của quang sai gây ra lớn hơn. 
So với các kính đa tiêu khúc xạ như Array SA-40N (AMO) thì kính Acrysof 
ReStor vẫn có ĐNTP cao hơn do có các vùng chuyển tiếp nhiễu xạ phân bổ 
năng lượng ánh sáng nhiều hơn đến tiêu xa. Nghiên cứu của Stephen S. 
Lane(Error! Reference source not found.) với cỡ mẫu khá lớn (Nhóm Đa tiêu có 457 bệnh 
nhân, Nhóm Đơn tiêu 157 bệnh nhân) cho thấy ĐNTP ánh sáng kém không 
khác biệt giữa Nhóm Đa tiêu (Acrysof ReStor) và Nhóm Đơn tiêu (Acrysof 
SA60AT). 
Bảng 1. Độ nhạy tương phản từng thị tần theo nhóm 
Nhóm 1.5 
c/deg 
3 
c/deg 
6 
c/deg 
12 
c/deg 
18 c/deg 
Nhóm 
Đa tiêu 
1,65 
± 
0,17 
1,85 
± 
0,15 
1,82 
± 
0,16 
1,5 ± 
0,22 
0,85 ± 
0,21 
Nhóm 
Đơn 
tiêu 
1,69 
± 
0,19 
1,9 ± 
0,21 
1,84 
± 
0,17 
1,7 ±
0,19 
1,4 ± 
0,23 
P (t-
test) 
0,612 0,598 0,351 0,088 0,001(*) 
Những than phiền về thị giác ở Nhóm Đa tiêu nhiều hơn so với Nhóm Đơn 
tiêu nhưng chủ yếu thuộc vào mức độ nhẹ hoặc trung bình tức là không trở 
ngại nhiều đến sinh hoạt hàng ngày của người bệnh. Các nghiên cứu trước 
đây đều cho thấy tỷ lệ hài lòng khá cao với Nhóm Đa tiêu (Acrysof 
ReStor)(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not 
found.) có lẽ là do cấu trúc nhiễu xạ “hòa trộn” (apodized: step – heights 
blending) của loại kính này Sự “hòa trộn” này làm giảm thất thoát năng lượng 
ánh sáng nhờ nhiễu xạ bậc cao và sự chuyển tiếp trơn tru giữa các vùng phân 
bổ ánh sáng vào hai tiêu xa và gần. Chính vì thế, ảnh tạo ở 2 tiêu điểm sẽ nét 
hơn và giảm đi các khó chịu về thị giác như quầng sáng hay chói(Error! Reference 
source not found.). 
Bảng 2. Tỷ lệ than phiền thị giác theo nhóm (%). 
Nhóm Khó chịu thị 
giác về đêm 
Quầng sáng Chói 
 Không/ 
Nhẹ 
TB Nặng Không/ 
Nhẹ 
TB Nặng Không/ 
Nhẹ 
TB Nặng 
R 88,38 9,30 2,32 74,42 20,93 4,65 76,75 18,60 4,65 
C 94,60 3,60 1,80 98,20 1,80 0 100 0 0 
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng như y văn(Error! Reference source not 
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.), kính đa tiêu đã được 
minh chứng là có hiệu quả tốt với thị lực gần mà không ảnh hưởng đến thị lực 
xa. Thị lực xa có kính và không kính là tương đương giữa hai nhóm Đa tiêu và 
Đơn tiêu. Thị lực gần ở nhóm Đa tiêu đạt 88,37% ≥ 5/10 cũng như tỷ lệ không 
phụ thuộc kính là 90% vượt trội hơn rất nhiều so với kính đơn tiêu thông 
thường. ĐNTP giữa hai nhóm khác biệt không đáng kể và không ảnh hưởng 
nhiều đến sinh hoạt của người bệnh nhưng than phiền thị giác ở nhóm Đa tiêu 
nhiều hơn có ý nghĩa so với nhóm Đơn tiêu. 
Tác dụng tích cực của thị lực gần tốt cũng như tỷ lệ không phụ thuộc kính cao 
của kính đa tiêu có vượt trội hơn hẳn khi so sánh với những than phiền thị giác 
như quầng sáng hay chói hoặc giảm độ nhạy tương phản hay không thì hoàn 
toàn do chọn lựa cá nhân của người bệnh. Vấn đề là ở chỗ chúng ta phải cung 
cấp đầy đủ thông tin để người bệnh có được lựa chọn đó. Quyết định cuối cùng 
của người bệnh chắc chắn phụ thuộc vào mong muốn không phải mang kính và 
hiểu biết thực tế về những than phiền thị giác có thể gặp phải. 
Tính chất quang học của kính nội nhãn ngày nay đã được hiểu rõ. Những 
nghiên cứu trong tương lai về những loại kính nội nhãn tương tự sẽ được tiếp 
tục với những tiêu chuẩn đánh giá khách quan hơn không chỉ đối với thị lực 
gần mà còn cả thị lực trung gian. Các hướng nghiên cứu khác trong tương lai 
với mục đích giảm tỷ lệ phụ thuộc kính cho người bệnh sẽ là các kính nội nhãn 
điều tiết(4).