Giáo dục tính tích cực, chủ động và phát triển năng lực độc lập giải quyết vấn đề cho học sinh là vấn đề cần được quan tâm trong mọi thời đại. Công nghệ thông tin ngày càng có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Nó đã, đang và sẽ có tác động trực tiếp đến nội dung, phương tiện và phương pháp dạy học
92 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1677 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng biểu diễn trực quan động để nâng cao năng lực đại số của học sinh lớp 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƯƠNG 1.
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu
Giáo dục tính tích cực, chủ động và phát triển năng lực độc lập giải quyết vấn
đề cho học sinh là vấn đề cần được quan tâm trong mọi thời đại. Công nghệ
thông tin ngày càng có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực, trong đó có giáo
dục. Nó đã, đang và sẽ có tác động trực tiếp đến nội dung, phương tiện và
phương pháp dạy học. Vì vậy, mỗi nhà trường THPT cần trang bị cho học
sinh kỹ năng không ngừng tự bổ sung kiến thức và đổi mới tri thức, phát triển
kỹ năng tích cực học tập của học sinh, biết tự mình thu thập tri thức và vận
dụng tri thức một cách sáng tạo. Nhằm đáp ứng nhu cầu trên, hiện nay, các
chương trình giáo dục toán phổ thông thường tạo điều kiện cho tất cả học sinh
để: Xây dựng kiến thức toán thông qua giải quyết vấn đề; Giải quyết vấn đề
nảy sinh từ toán học và những hoàn cảnh khác; Áp dụng và mô phỏng nhiều
phương pháp thích hợp để giải quyết vấn đề; Theo dõi và phản ánh quá trình
giải quyết vấn đề.
Theo PISA (chương trình đánh giá Học sinh Quốc tế - Programme for
International Student Assessment) thì học sinh lớp 10 đang ở lứa tuổi mười
lăm, lứa tuổi vừa hoàn thành phổ cập chính thức bậc trung học cơ sở, cũng là
giai đoạn chuyển tiếp có ý nghĩa quyết định, ở đó năng lực toán của học sinh
sẽ có ảnh hưởng lớn đến thành công của các em trong những năm học tiếp
theo và nghề nghiệp sau này. Do đó, để hình thành các năng lực về toán cho
học sinh là điều rất quan trọng.
Trong chương trình Đại số lớp 10, có rất nhiều khái niệm, định lý… khá trừu
tượng và vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo lối truyền thụ, thiếu mô hình trực
quan động nên học sinh thường gặp khó khăn trong việc nắm khái niệm cũng
như nhầm lẫn các khái niệm. Khi đó, sẽ xảy ra trình trạng học sinh phải học
thuộc định nghĩa, định lý và vận dụng máy móc vào giải bài tập mà không
hiểu được bản chất của các khái niệm cơ bản. Chúng tôi cho rằng, các phần
mềm động có thể giúp ích cho việc học toán, nghĩa là: thông qua các biểu diễn
2
trực quan động được thiết kế trên phần mềm The Geometer’s Skepchpad
(GSP), giáo viên có thể sử dụng có hiệu quả cao trong nhiều khâu của quá
trình dạy toán như: Phát hiện vấn đề, khảo sát, giải quyết vấn đề, củng cố,
kiểm tra và đánh giá, thông qua đó học sinh có thể phát hiện và giải quyết vấn
đề một cách dễ dàng, nhanh chóng.
1.1. Nhu cầu nghiên cứu
Giải quyết vấn đề là mục tiêu chính của việc học toán. Với học sinh, đó là kỹ năng
cơ bản cho công việc ở tương lai. Khác với một số nước trên thế giới, các hoạt
động tìm kiếm và sử dụng các biểu diễn trực quan động chưa có vị trí riêng trong
nội dung dạy học hay các chủ đề của chương trình toán ở nước ta. Do đó, đa số
học sinh đều bỡ ngỡ khi tiếp xúc với các kiểu nhiệm vụ này, đặc biệt là sử dụng
các biểu diễn trực quan động để giải quyết các vấn đề toán học và thực tế.
Phương pháp dạy học luôn cần được đổi mới để phù hợp với các yêu cầu của
thời đại và mỗi người giáo viên luôn mong muốn mang đến cho học sinh
những giờ học thực sự hiệu quả, giáo viên truyền đạt đầy đủ kiến thức nhưng
mất không quá nhiều thời gian, học sinh chủ động hoàn toàn. Lấy ví dụ, để rút
ra được định lý về dấu của tam thức bậc hai, giáo viên phải có 6 đồ thị của
hàm số bậc hai tương ứng với các trường hợp. Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào
để học sinh có thể rút ra được kết luận mà không phải dùng nhiều hơn một đồ
thị? không mất quá nhiều thời gian trên lớp?...Sử dụng biểu diễn trực quan
động là một câu trả lời phù hợp.
Để góp phần nâng cao chất lượng học tập, nâng cao các năng lực toán cho học
sinh, việc đổi mới phương pháp cần được thực hiện theo hướng tích cực hoá
người học, cần tổ chức cho học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt
động tự giác, chủ động, tích cực và sáng tạo. Thích hợp với định hướng đó có
nhiều xu hướng dạy học nhằm nâng cao năng lực đại số với sự hỗ trợ của các
biểu diễn trực quan động trên máy tính.
1.2. Đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò của biểu diễn trực quan động trong việc nâng cao năng lực
toán của học sinh THPT nói chung và trong việc nâng cao năng lực đại số của
3
học sinh lớp 10 nói riêng là một nhiệm vụ thiết thực, có ý nghĩa. Các mô hình
toán học động tỏ ra có hiệu quả trong việc hỗ trợ học sinh kiến tạo tri thức và
nâng cao năng lực toán học cho học sinh. Việc xây dựng các mô hình này
cũng như áp dụng nó vào giảng dạy cần được thực hiện một cách phổ biến.
Chúng tôi chọn đề tài: “Sử dụng biểu diễn trực quan động để nâng cao năng
lực đại số của học sinh lớp 10”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu “Sử dụng biểu diễn trực quan động để nâng cao
năng lực đại số của học sinh lớp 10” là:
Lên ý tưởng và thiết kế các mô hình động, phù hợp với khả năng của
học sinh để học sinh có thể thực hiện được các thao tác trên mô hình nhằm đạt
hiệu quả trong giờ dạy.
Nắm bắt được năng lực đại số mà học sinh lớp 10 thể hiện khi giải
quyết các vấn đề toán học và các vấn đề thực tế bằng cách sử dụng biểu diễn
trực quan động.
Nghiên cứu vai trò của biểu diễn trực quan động đối với việc nâng
cao năng lực đại số của học sinh lớp 10.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Dựa vào các mục đích ở trên, nghiên cứu này sẽ trả lời ba câu hỏi sau:
Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: Xây dựng những mô hình động về đại
số như thế nào để giáo viên và học sinh có thể sử dụng nhằm đạt hiệu cao
trong giảng dạy và học tập?
Câu hỏi nghiên cứu thứ hai: Những năng lực đại số nào mà học sinh
lớp 10 thể hiện khi giải quyết các vấn đề toán học và thực tế thông qua thao
tác trên các biểu diễn trực quan động?
Câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Các bài toán có sử dụng biểu diễn trực
quan động có vai trò như thế nào đối với việc nâng cao năng lực đại số của
học sinh lớp 10?
4. Định nghĩa các thuật ngữ
Trực quan hóa: Trực quan hoá là khả năng, quá trình và sản phẩm
của sự sáng tạo, giải thích, sử dụng và phản ánh dựa trên các hình vẽ, hình
ảnh, đồ thị, sơ đồ, biểu bảng ở trong đầu chúng ta, trên giấy hay trên các công
4
cụ khoa học công nghệ, với mục đích mô tả và giao tiếp thông tin, tư duy và
phát triển các ý tưởng chưa biết trước đó để đi đến việc hiểu toán (Arcavi,
2003, [14, tr. 217).
Biểu diễn: Có nhiều định nghĩa khác nhau về biểu diễn trong giáo
dục toán. Hầu hết các nhà nghiên cứu giáo dục toán phân biệt giữa biểu diễn
trong và ngoài, trong đó biểu diễn ngoài là những biểu hiện của các ý tưởng
hoặc khái niệm như biểu đồ, bảng biểu, đồ thị, sơ đồ, ngôn ngữ… và biểu diễn
trong là các mô hình nhận thức mà một người có được trong trí óc họ (Minh
Phúc, 2010, [4]).
Biểu diễn bội: BDB là những biểu hiện bên ngoài của các ý tưởng và
khái niệm toán học nhằm cung cấp cùng một thông tin ở những dạng khác
nhau (Minh Phúc, 2010, [4]).
Biểu diễn trực quan: Biểu diễn trực quan được xem là công cụ để
trực quan hoá nhằm hiểu được các đối tượng toán học trừu tượng.
Biểu diễn trực quan động: BDTQĐ trên máy tính là biểu diễn trực
quan trong đó cho phép sử dụng các thao tác động lên các đối tượng trong
biểu diễn. Với sự hỗ trợ của máy tính cùng các phần mềm hình học động GSP,
có thể thiết kế được các biểu diễn loại này để hỗ trợ học sinh kiến tạo tri thức
toán (Minh Phúc, 2010, [4]).
Vấn đề: Vấn đề là tình huống đặt ra cho cá nhân hoặc nhóm để giải
quyết mà khi đối mặt với tình huống này họ không thấy ngay các phương
pháp hoặc con đường để thu được lời giải (Trần Vui, 2006, [10]).
Suy luận: Suy luận chỉ quá trình một cá nhân có thể sử dụng các quy
tắc, các bằng chứng và những kiến thức đã có để suy ra các kết luận mới, xây
dựng các giải thích hoặc đánh giá các kết luận khác (English, L. D.,2004, [15]).
Tư duy: là cách nghĩ để nhận thức và giải quyết vấn đề. Tư duy là quá
trình tâm lý nhờ đó con người phản ánh, nhận thức được các sự vật hiện
tượng, các mối quan hệ của hiện thực qua những dấu hiệu căn bản của chúng.
Tư duy toán học: là khả năng của người học để đạt một kết luận có cơ
sở từ những dữ liệu toán học đã cho. Đặc trưng quan trọng nhất của tư duy
toán học là tính có vấn đề, tư duy phải được gắn với những tình huống có vấn
5
đề. Học sinh phải đặt được giả thuyết, rồi từ những mối liên hệ trong tình
huống có vấn đề để đi đến kết luận và lý giải kết quả đạt được. Những kết quả
này sẽ được tổng hợp thành những ý tưởng toán học mới. Ở đây, chúng ta chia
thành bốn thành phần chính là nhắc lại, hiểu, phê phán và sáng tạo. Với quan
điểm này thì quá trình suy luận toán học là một bộ phận của tư duy toán học,
nó nằm trên mức độ tư duy nhắc lại.
Tư duy logic: là tư duy theo các quy tắc của logic học, là cách tư duy
nhằm khám phá bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của sự vật trong quá trình
phát triển.
Tư duy sáng tạo: là cách nghĩ mới về sự vật, hiện tượng, về mối quan
hệ, suy nghĩ mới về cách giải quyết có ý nghĩa, có giá trị.
Tư duy phê phán: là khả năng xem xét các mối liên hệ, đánh giá mọi
khía cạnh của bài toán hay tình huống. Tư duy phê phán thể hiện qua việc học
sinh có khả năng nhận ra giả thiết và các yêu cầu của bài toán, hoặc phát hiện
được tính hợp lý trong các điều kiện của bài toán, tính đầy đủ của lời giải...Tư
duy phê phán bao gồm các kỹ năng như tập trung vào các yếu tố của bài toán
hay tình huống khó khăn, thu thập và sắp xếp thông tin.
5. Ý nghĩa của nghiên cứu
Thứ nhất: Nghiên cứu này sẽ cung cấp cho người dạy và người học
những mô hình động có thể sử dụng trong giờ học nhằm hỗ trợ học sinh giải
quyết một số vấn đề.
Thứ hai: Kết quả thăm dò sẽ cung cấp một cái nhìn khách quan về
năng lực đại số của học sinh lớp 10 thể hiện khi giải quyết các bài toán bằng
cách sử dụng biểu diễn trực quan động.
Thứ ba: Kết quả của nghiên cứu sẽ giúp chúng ta thấy được những vai
trò của các biểu diễn trực quan động trong quá trình giúp học sinh giải quyết
vấn đề.
6. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận bao gồm 5 chương, phần tài liệu tham khảo và các phụ lục.
Chương 1: Mở đầu
6
Trong chương 1, chúng tôi đưa ra nhu cầu nghiên cứu, mục đích nghiên cứu,
các câu hỏi nghiên cứu, định nghĩa các thành phần và ý nghĩa của việc nghiên
cứu này.
Chương 2: Những kết quả nghiên cứu liên quan
Trong chương 2, chúng tôi trình bày nền tảng lịch sử của vấn đề nghiên cứu,
nền tảng lý thuyết gồm lý thuyết kiến tạo, lý thuyết về biểu diễn bội và lý
thuyết về trực quan động. Bên cạnh đó, tôi cũng giới thiệu cơ sở lý thuyết theo
khuôn khổ đánh giá của PISA. Cuối cùng là những kết quả nghiên cứu liên
quan.
Chương 3: Phương pháp và quy trình nghiên cứu
Trong chương 3, chúng tôi thiết kế quá trình nghiên cứu, nêu ra đối tượng
nghiên cứu, công cụ nghiên cứu, quy trình thu thập tài liệu, quy trình phân
tích dữ liệu và các hạn chế.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Trong chương 4, chúng tôi trình bày những kết quả nghiên cứu của mình
nhằm trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu nêu ra ở chương 1.
Chương 5: Kết luận, lý giải và ứng dụng
Trong chương này, trình bày kết luận cho ba câu hỏi nghiên cứu từ đó lý giải
cho ba câu hỏi nghiên cứu, cuối cùng là những ứng dụng của nghiên cứu.
7. Tóm tắt
Trong chương 1, chúng tôi trình bày mục đích và ý nghĩa của đề tài “Sử dụng
biểu diễn trực quan động để nâng cao năng lực đại số của học sinh lớp
10.”, đồng thời chúng tôi cũng phát biểu các câu hỏi nghiên cứu và định nghĩa
một số thuật ngữ cho khóa luận. Chúng tôi sẽ trình bày các kiến thức làm cơ
sở và định hướng cho nghiên cứu này ở chương 2.
7
CHƯƠNG 2.
NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1. Giới thiệu
Mục đích của chương này là xác định và làm rõ vấn đề nghiên cứu, lịch sử của
vấn đề nghiên cứu, nền tảng lý thuyết, cơ sở lý thuyết theo khuôn khổ đánh
giá toán của PISA, biểu diễn bội và biểu diễn trực quan động, tóm tắt sơ lược
các nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài.
2. Nền tảng lý thuyết
2.1. Lý thuyết kiến tạo
Trong quá trình dạy học, điều quan trọng nhất không phải là giáo viên dạy
những gì mà học sinh học được những gì. Do đó, khi dạy người giáo viên
không những quan tâm đến phương pháp, nội dung giảng dạy của mình mà
còn phải chú ý đến việc học sinh học như thế nào. Lý thuyết kiến tạo nhằm trả
lời cho câu hỏi “con người học như thế nào?”. Bằng cách xây dựng lý thuyết
từ những biểu diễn trực quan động, học sinh có thể nắm bắt tốt hơn các khái
niệm, định lý, hệ quả và có thể đi từ nhận biết sang hiểu nó. Về cơ bản, lý
thuyết kiến tạo cho là việc học gắn liền với sự tương tác giữa hai yếu tố là
đồng hóa và điều ứng.
Đồng hóa: nếu gặp một tri thức mới nhưng tương tự với cái đã biết
thì tri thức mới này có thể được kết hợp trực tiếp vào trong một sơ đồ nhận
thức đang tồn tại mà nó rất giống với tri thức mới;
Điều ứng: đôi khi một tri thức mới có thể hoàn toàn trái ngược với
những sơ đồ nhận thức đang có. Những sơ đồ hiện có được thay đổi để tương
hợp với thông tin trái ngược đó.
Lý thuyết kiến tạo được trình bày theo hai nguyên tắc sau:
Tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể nhận thức chứ
không phải được tiếp thu một cách thụ động từ môi trường bên ngoài;
Nhận thức là quá trình điều ứng và tổ chức lại thế giới quan của
chính mỗi người. Nhận thức không phải là khám phá một thế giới độc lập
đang tồn tại bên ngoài ý thức của chủ thể.
8
Lý thuyết kiến tạo thể hiện niềm tin rằng tất cả các tri thức đều là sản phẩm của
hoạt động nhận thức của chúng ta. Kiến thức được kiến tạo khuyến khích tư duy
phê phán, nó cho phép học sinh tích hợp các khái niệm theo nhiều cách khác
nhau. Và giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ học sinh xây dựng
kiến thức chính xác. Đôi khi học sinh kiến tạo tri thức cho mình nhưng chỉ đúng
trong trường hợp cụ thể. Khi đó giáo viên cần phải đưa ra thêm những tình huống
cho phép học sinh thử nghiệm kiến thức của mình. Một khi học sinh nhận ra rằng
tri thức được kiến tạo không đúng với tình huống mới, các em có thể điểu chỉnh
và kiểm tra tính đúng đắn cho phù hợp.
Như vậy, lý thuyết kiến tạo đề cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh trong quá trình nhận thức. Một môi trường học tập tích cực gắn liền với
sự hứng thú và sự tự giác trong nhận thức của học sinh. Tích tích cực học tập
liên quan mật thiết với động cơ học tập của học sinh. Động cơ đúng tạo ra
hứng thú. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực. Phong
cách học tập tích cực, độc lập và sáng tạo sẽ phát triển tính tự giác, hứng thú
và bồi dưỡng động cơ học tập (Trần Vui, 2006, [9]).
2.2. Biểu diễn bội
2.2.1. Giới thiệu
Việc sử dụng biểu diễn bội có hoặc không có công nghệ thông tin là một trong
những chủ đề chính của giáo dục toán trong những năm gần đây. Biểu diễn bội
cung cấp một môi trường hiệu quả cho học sinh nhận biết và hiểu những khái
niệm toán, định lý, hệ quả được học. Điều quan trọng đặt ra là những biểu diễn
nào được dùng cho những khái niệm, định lý riêng biệt. Các câu hỏi sau đây cần
có được những câu trả lời xác đáng: (1) Với một khái niệm đại số, một định lý,
sử dụng biểu diễn bội như thế nào để hỗ trợ học sinh nắm bắt khái niệm, định lý
đó? (2) Các biểu diễn thao tác được đóng vai trò như thế nào trong hỗ trợ học
sinh kiến tạo tri thức toán? (3) Học sinh chọn lựa các thao tác trên các biểu diễn
như thế nào để giải quyết các vấn đề toán được đặt ra?
Biểu diễn trực quan động với thế mạnh của mình có thể thể hiện đồng thời
nhiều loại biểu diễn khác nhau và hỗ trợ tốt cho học sinh khám phá kiến thức.
9
2.2.2. Biểu diễn bội và vai trò của nó trong dạy học toán
Ozgun Koca (2003) đã đề xuất vai trò của các biểu diễn trong dạy học toán
như sau:
Các biểu diễn là một phần không tách rời của toán học;
Các biểu diễn là những cụ thể hóa khác nhau của một khái niệm nào đó;
Các biểu diễn được sử dụng để giảm bớt độ khó của vấn đề;
Các biểu diễn nhằm làm cho toán học hấp dẫn và thú vị hơn.
Biểu diễn như là một công cụ của tư duy. Chúng ta biểu diễn một vấn đề hoặc
khái niệm và dùng biểu diễn đó để tư duy. Hơn nữa biểu diễn còn được xem
như một phương pháp ghi nhớ và là một phương pháp để thông tin. (Minh
Phúc, 2010, [4]).
Bruner (trong Tadao Nakahara, 2007) chỉ ra rằng có thể chia biểu diễn thành 3
phạm trù theo các giai đoạn phát triển của biểu diễn là: Biểu diễn thực tế
Biểu diễn biểu tượng Biểu diễn ký hiệu. Phân loại, mô tả của các biểu diễn
được trình bày ở bảng sau, trong đó các biểu diễn được xếp từ dưới lên trên
theo thứ tự từ cụ thể đến trừu tượng hơn:
Giai đoạn
phát triển
Phân loại Mô tả
Biểu diễn ký
hiệu
Sử dụng số, chữ cái và các ký hiệu toán.
Biểu diễn
ký hiệu Biểu diễn ngôn
ngữ
Sử dụng ngôn ngữ nói và viết hằng ngày
như tiếng Việt, tiếng Anh.
Biểu diễn
biểu tượng
Biểu diễn minh
họa/ trực quan
Sử dụng các minh họa như hình vẽ, sơ
đồ, đồ thị trên mặt phẳng hai chiều hoặc
giả lập ba chiều trên máy tính.
Biểu diễn thực
thao tác được
Thực hiện các thao tác lên các mô hình
ba chiều thực hoặc mô hình cho phép
thao tác. Biểu diễn thực tế
Biểu diễn thực
Dựa trên các trạng thái thực của đối
tượng.
10
2.2.3. Những tiếp cận dạy học khái niệm theo biểu diễn bội
Lý thuyết kiến tạo đề xuất rằng học sinh phải kiến tạo tri thức cho bản thân
bởi chính sự chủ động của các em. Von Glasersfeld (1996) nhận thấy các kiến
thức có được nhờ vào thế giới thực nghiệm được xây dựng bởi chính bản thân
người học và không có kiến thức nào mang tính đơn trị. Từ đó, chúng ta
không nên cho rằng mọi người sẽ lĩnh hội cùng một kiến thức toán từ một
biểu diễn như nhau.
Dienes (1960) (trong Ozgun Koca, 1998) đề xuất rằng những khái niệm toán
học nên được giới thiệu trong nhiều dạng khác nhau để học sinh nắm bắt được
bản chất toán học của nó. Dienes cũng nhấn mạnh việc học khái niệm toán
học sẽ tốt hơn khi các em được thấy khái niệm đó thông qua nhiều bối cảnh
hoặc biểu hiện khác nhau.
Theo Piez và Voxman (1997) (trong Ozgun Koca, 1998), bởi vì mỗi biểu diễn
nhấn mạnh và lưu giữ những khía cạnh khác nhau của một khái niệm, chúng
ta tin rằng học sinh nhận được nhiều hiểu biết sâu hơn về một hàm số nếu nó
được khám phá bằng cách sử dụng các phương pháp số, đồ thị và giải tích
(Minh Phúc, 2010, [4]).
2.3. Biểu diễn trực quan động
2.3.1. Biểu diễn trực quan động trên máy tính
Biểu diễn trực quan động trên máy tính là biểu diễn trực quan trong đó cho
phép sử dụng các thao tác tác động lên các đối tượng trong biểu diễn. Với sự
hỗ trợ của máy tính cùng các phần mềm hình học động, có thể thiết kế được
các biểu diễn loại này để hỗ trợ học sinh kiến tạo tri thức toán. Thao tác động
theo William Finzer (1998) có các đặc điểm sau đây:
Thao tác trực tiếp. Xác định miền nghiệm của hệ bất phương trình
bậc nhất 1 ẩn là một đa giác rồi lấy một điểm di động M trên biên của đa giác
đó. Bạn nắm lấy điểm M rồi kéo rê nó đến trùng với các đỉnh của đa giác. Bạn
sẽ nói “Tôi kéo rê điểm M” chứ không nói “Tôi kéo rê chấm tròn nhỏ này và
nó sẽ làm thay đổi vị trí của điểm M”.
11
Chuyển động cập nhật liên tục. Các thay đổi được cập nhật liên tục
trong suốt quá trình kéo rê. Các đối tượng toán học có trên màn hình vẫn liên
kết trong một tổng thể tại mọi thời điểm. Chẳng hạn, nếu tính độ dài cung
¼AM trên đường tròn lượng giác thì giá trị hiển thị độ dài của cung trên màn
hình sẽ thay đổi tương ứng với sự thay đổi vị trí của điểm M khi kéo rê M.
Môi trường tối ưu cho các thao tác. Thực nghiệm của bạn chỉ liên
quan đến những đối tượng mà bạn thao tác. Bạn khám phá chúng, làm việc
với chúng. Giao diện của chương trình hầu như không gây ra tác động nào và
bạn có thể tập trung làm thế nào để đạt được những mục đích toán học chứ
không phải làm thế nào để điều khiển công nghệ.
Dựa trên ba đặc điểm này, việc sử dụng các biểu diễn trực quan động cần tạo
cho học sinh có sự chủ động trong việc tìm ra và thực hiện các thao tác động
trên biểu diễn. Hơn nữa, trong những điều kiện ch