Đề tài Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế

Thời đại chúng ta được phát triển bằng sự liên kết chặt chẽ giữa đầu tư phát triển công nghệ với sức mạnh công nghiệp của mỗi quốc gia. Tuy vậy, những nền kinh tế hiện đại phải luôn nghiên cứu, tìm nguồn thu nhập thực sự để chuyển các phát minh trí tuệ thành những đổi mới mang lại nhiều lợi nhuận. Do đổi mới là phát minh kỹ thuật đã trở thành sản phẩm kinh tế và kiến thức cơ bản cùng khoa học ứng dụng ít có khả năng phân ly nên kỹ thuật ngày càng gắn bó với công nghệ hơn.

docx31 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thời đại chúng ta được phát triển bằng sự liên kết chặt chẽ giữa đầu tư phát triển công nghệ với sức mạnh công nghiệp của mỗi quốc gia. Tuy vậy, những nền kinh tế hiện đại phải luôn nghiên cứu, tìm nguồn thu nhập thực sự để chuyển các phát minh trí tuệ thành những đổi mới mang lại nhiều lợi nhuận. Do đổi mới là phát minh kỹ thuật đã trở thành sản phẩm kinh tế và kiến thức cơ bản cùng khoa học ứng dụng ít có khả năng phân ly nên kỹ thuật ngày càng gắn bó với công nghệ hơn. Từ mục đích kích thích cạnh tranh công nghiệp, mục tiêu đổi mới công nghệ đã được mô tả ở nhiều khía cạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Các chương trình nghiên cứu phát triển công nghệ đã gắn liền với hiệu quả phát triển.Chuyển giao công nghệ và khai thác kết quả nghiên cứu. Việc phổ biến kết quả nghiên cứu hướng về doanh nghiệp là một trong những lợi thế ưu tiên. Vấn đề được chỉ ra là phần lớn các dự án hỗ trợ đã được hình thành từ những kết quả nghiên cứu mang tính chất áp dụng thương mại. Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, sự trao đổi, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia ngày càng có chiều hướng gia tăng và trở thành một trong những nội dung quan trọng trong mối bang giao quốc tế hiện nay. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới đang thực sự quan tâm phát triển thị trường khoa học và công nghệ bên cạnh thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường tài chính... để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Trong báo cáo này mục đích tìm hiểu những kiến thức, những khái niệm cơ bản về “Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế”. Được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo Hoàng Trọng Thanh em đã nhanh chóng nắm bắt được những vấn đề cơ bản và tầm quan trọng của Văn hóa trong quản trị sản xuất kinh doanh. Do nội dung kiến thức của đề tài tương đối rộng, điều kiện thời gian cũng như kiến thức có hạn, điều kiện nghiên cứu chủ yếu dựa trên lý thuyết và tài liệu tham khảo nên chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để đề tài được chính xác, đầy đủ và phong phú hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh Tế & Quản Trị Kinh Doanh đã giúp đỡ em trong thời gian qua. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Trọng Thanh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2007. Sinh viên Nguyễn Thị Tuyết Băng CHƯƠNG I MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ I. Các khái niệm 1. Khái niệm công nghệ  Theo tiến sĩ Ngô Văn Quế, trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, người ta quen dùng khái niệm công nghệ với nghĩa nó là phương tiện vật chất như: công cụ, năng lượng, vật liệu được con người sáng tạo và sử dụng trong sản xuất và dịch vụ. Từ những năm 60 trở lại đây, do mua bán công nghệ ngày càng sôi động trong kinh doanh quốc tế nên công nghệ đã được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Hiện nay đang tồn tại những quan niệm khác nhau về công nghệ. Song, chưa có sách vở nào đưa ra một định nghĩa chuẩn xác về công nghệ. Theo tác giả K.Ramanathan, tồn tại một số quan niệm phổ biến về công nghệ như sau: “Công nghệ là máy biến đổi”. Với quan niệm này, công nghệ được thể hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất, nó thể hiện xu hướng cho rằng khoa học và công nghệ là một và phải được áp dụng đồng thời, và các nhà khoa học ứng dụng cần tìm ra cách áp dụng vào thực tế các lý thuyết thuần tuý. Thứ hai, thuật ngữ “công nghệ” liên quan đến khả năng làm một cái gì đó, ngụ ý rằng nó là những gì làm biến đổi yếu tố đầu vào thành sản phẩm đầu ra sau cùng. Quan niệm như vậy đã nhấn mạnh không chỉ tầm quan trọng của công nghệ trong việc giải quyết các vấn đề thực tế, mà còn nhấn mạnh sự phù hợp của mục đích kinh tế trong việc áp dụng công nghệ. Tuy nhiên, những định nghĩa này còn rất chung chung, không đủ cụ thể để mở ra chiếc “hộp đen công nghệ”. “Công nghệ là công cụ”. Với quan niệm này, công nghệ dựa trên nền tảng là các máy móc thiết bị. Cách nhìn này vẫn còn phổ biến đến ngày nay, mặc dù một vài định nghĩa có nói đến sự tác động quan lại giữa máy móc – con người. Những định nghĩa dựa trên quan niệm “Công nghệ là công cụ” đã mở ra phần nào chiếc hộp đen công nghệ, tuy nhiên nó vẫn còn thiếu sót. Tác giả Simon đã nói trong cuốn sách “Technology Policy Formulation and Planning: A Reference Manual” rằng: “Nhìn công nghệ ở khía cạnh máy móc và những vật chất rõ ràng sai lầm giống như chỉ nhìn thấy cái vỏ của con ốc sên, hay cái mạng của con nhện vậy.” “Công nghệ là kiến thức” cho rằng kiến thức là bản chất của tất cả các phương tiện chuyển đổi. Những người ủng hộ quan niệm này cho rằng kiến thức là khía cạnh quan trọng hàng đầu. Những định nghĩa đi theo quan niệm này ngụ ý rằng kiến thức có thể được phân loại thành “know-why” và “know-how”. “Know-why” là những kiến thức khoa học thuần tuý như các nguyên tắc liên quan đến vật lý và hiện tượng xã hội. “Know-how” dựa trên kinh nghiệm và kinh nghiệm tăng lên thông qua việc áp dụng “know-why” vào thực tế (phương pháp thử - sai, kinh nghiệm, học hỏi từ chuyên gia). Một trong những đóng góp chính của quan niệm này là giúp mở ra chi tiết hơn “hộp đen công nghệ” bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của kiến thức và phác hoạ các dạng kiến thức cần thiết cho các hoạt động chuyển đổi. “Công nghệ là các hình thái biểu hiện” cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề mà ba quan niệm trên gặp phải và cố mở ra hoàn toàn chiếc hộp đen công nghệ. Quan niệm này nhìn công nghệ theo những hình thái biểu hiện khác nhau theo cách tiếp cận chiết trung, dựa trên những ý tưởng phát ra từ ba quan niệm phía trên. Bí quyết kỹ thuật là thông tin được tích luỹ, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh của chủ sở hữu công nghệ có ý nghĩa quyết định chất lượng, khả năng cạnh tranh của công nghệ, sản phẩm công nghệ. Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao; có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.  Công nghệ mới là công nghệ lần đầu tiên được tạo ra tại Việt Nam. Công nghệ tiên tiến là công nghệ hàng đầu, có trình độ công nghệ cao hơn trình độ công nghệ cùng loại hiện có. Cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ là nơi có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ, hỗ trợ cần thiết để ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ. Chợ công nghệ, hội chợ công nghệ, triển lãm công nghệ, trung tâm giao dịch công nghệ là nơi trưng bày, giới thiệu, mua bán công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ và cung cấp các dịch vụ khác về chuyển giao công nghệ. Một số định nghĩa theo quan niệm này vẫn còn chung chung theo các khía cạnh “phần cứng” và “phần mềm”, nhưng cũng có những định nghĩa cụ thể hơn và có ý nghĩa đáng kể trong việc mở ra hộp đen công nghệ (chia công nghệ theo các thành phần Kỹ thuật, Con người, Thông tin và Tổ chức). Như trên ta đã thấy, việc xem xét công nghệ theo các hình thái biểu hiện đã khắc phục những thiếu sót của các quan niệm khác và mở ra chiếc hộp đen công nghệ một cách đầy đủ. Trong việc đánh giá trình độ công nghệ, cần thiết phải có một cái nhìn đầy đủ và chi tiết về công nghệ và các thành tố của nó để có thể khảo sát một cách đầy đủ và sát với thực tế nhất trình độ công nghệ của các ngành công nghiệp. Trong các định nghĩa về công nghệ dựa trên quan điểm này, định nghĩa công nghệ của K.Ramanathan với bốn thành phần Thiết bị, Con người, Thông tin và Tổ chức đã được lựa chọn để xem xét bởi sự toàn diện và cụ thể so với các định nghĩa khác. Thành phần Thiết bị (Technoware): bao gồm các công cụ và các phương tiện sản xuất thực hiện các hoạt động sản xuất để tạo ra các sản phẩm mong muốn. Technoware bao gồm hệ thống biến đổi nguyên vật liệu và hệ thống xử lý thông tin. • Hệ thống biến đổi nguyên vật liệu thực hiện các hoạt động cơ học theo thiết kế của máy móc thiết bị. • Hệ thống xử lý thông tin thực hiện một chuỗi kiểm soát, có thể được xây dựng một cách cục bộ hoặc hoàn toàn trong thành phần Thiết bị. Trong một vài trường hợp, nó có thể không có trong thành phần này. Hệ thống gồm ba giai đoạn: nhận biết – phân tích – xử lý. Thành phần Con người (Humanware): là kỹ năng và kinh nghiệm sản xuất biểu hiện về mặt con người của công nghệ. Tầm quan trọng của kỹ năng dựa trên ba điều cơ bản: • Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất và là nguồn gốc giá trị thị trường của các loại hàng hoá. • Con người có trí thông minh (không như máy móc). Do đó, họ có khả năng suy nghĩ, phân tích, sáng tạo và phát triển thông tin cần thiết để tạo ra sự sung túc, giàu có. • Năng suất lao động của con người có thể tăng hoặc giảm do môi trường làm việc. Thành phần Tổ chức (Orgaware): đề cập tới sự hỗ trợ về nguyên lý, thực tiễn, và bố trí để vận hành hiệu quả việc sử dụng Technoware bởi Humanware. Nó có thể được thể hiện thông qua các thuật ngữ như nội quy công việc, tổ chức công việc, sự thuận tiện trong công việc, đánh giá công việc và giảm nhẹ công việc. Thành phần Thông tin (Inforware): biểu thị việc tích luỹ kiến thức bởi con người. Dù có tổ chức tốt, “Con người” cũng không thể sử dụng “Máy móc” hiệu quả nếu không có cơ sở “Thông tin, tài liệu”. Inforware được chia làm ba loại: • Thông tin chuyên về thiết bị: thông tin cần cho việc vận hành, bảo trì và cải tiến. • Thông tin chuyên về con người: thông tin về những hiểu biết và đánh giá về quy trình sản xuất và thiết bị được sử dụng. • Thông tin chuyên về tổ chức: thông tin cần thiết để bảo đảm việc sử dụng hiệu quả, sự tác động qua lại theo thời gian, và sự có sẵn của Technoware và Humanware. Bốn yếu tố này bổ sung cho nhau và tác động lẫn nhau. Chúng đòi hỏi phải có mặt đồng thời trong hoạt động sản xuất và không có hoạt động chuyển đổi nào có thể hoàn thành nếu thiếu một trong bốn yếu tố. Hình vẽ dưới đây sẽ cho ta thấy sự tóm lược của bốn yếu tố công nghệ. Mối quan hệ hữu cơ của các thành phần công nghệ 2. Khái niệm chuyển giao công nghệ  Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ. Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam là việc chuyển giao công nghệ giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam là việc tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. Chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài. Dịch vụ chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ quá trình tìm kiếm, giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đánh giá công nghệ là hoạt động xác định trình độ, giá trị, hiệu quả kinh tế và tác động kinh tế - xã hội, môi trường của công nghệ.14. Định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của công nghệ. Giám định công nghệ là hoạt động kiểm tra, xác định các chỉ tiêu của công nghệ đã được chuyển giao so với các chỉ tiêu của công nghệ được quy định trong hợp đồng chuyển giao công nghệ. Hoạt động chuyển giao công nghệ bao gồm chuyển giao công nghệ và dịch vụ chuyển giao công nghệ. Môi giới chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ bên có công nghệ, bên cần công nghệ trong việc tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Tư vấn chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ các bên trong việc lựa chọn công nghệ, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. II. Nguồn gốc và thị trường chuyển giao công nghệ  1. Nguồn gốc chuyển giao công nghệ. Ngày nay cùng với sự phát triển và nghiên cứu khoa học vào đời sống xã hội, kinh tế, thì chuyển giao công nghệ là một quá trình rất quan trọng. Để có thể áp dụng tốt nhất các công nghệ mới đòi hỏi phải có một quy trình cụ thể được nhà cung cấp dịch vụ ( công nghệ ) bàn giao cho các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng công nghệ đó. Sau khi triển khai và đưa vào sử dụng nhà cung cấp sẽ phải chuyển giao công nghệ ( cách sử dụng, quản lý ). Quá trình chuyển giao chình là quá trình tối quan trọng vì nó phản ánh cho người sử dụng rõ nhất về các đặc điểm cũng như hiệu quả mà nó mang lại cho doanh nghiệp, tổ chức. Trong quá trình chuyển giao bên cung cấp luôn phải Support (hỗ trợ) nhằm làm hài lòng nhất khách hàng của mình. Hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam trong những năm qua đã phát triển rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ chưa được coi trọng do trước đây Nhà nước mới ban hành văn bản dưới dạng Nghị định, Thông tư có phạm vi điều chỉnh hẹp, hiệu lực pháp lý còn thấp. Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ mới xuất hiện hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện nhưng chưa có quy định pháp luật điều chỉnh cụ thể. Nước ta đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Do đó, việc thu hẹp không tương thích giữa pháp luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam và pháp luật quốc tế là một ưu tiên. Một số nội dung của các văn bản pháp luật về chuyển giao công nghệ trước đây chưa phù hợp, thiếu cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Thị trường chuyển giao công nghệ  Là toàn bộ thị trường kinh tế, bao gồm các đơn vị, tổ chức chính phủ, phi chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân trong nước và nước ngoài có nhu cầu. 3. Tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ. Theo luật chuyển giao công nghệ quá trình chuyển giao công nghệ gồm: Hợp đồng chuyển giao công nghệ. - Nguyên tắc lập hợp đồng: Mọi hoạt động chuyển giao công nghệ phải thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương văn bản, bao gồm: Điện báo, Telex, Fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. - Nội dung của hợp đồng CGCN: + Tên và hình thức công nghệ được chuyển giao; + Các khái niệm và thuật ngữ trong hợp đồng; + Mục tiêu, nội dung, phạm vi, đặc điểm, chất lượng và kết quả CGCN. Trong trường hợp công nghệ được chuyển giao có nội dung gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp thì hợp đồng phải có điều riêng về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp. + Quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện chuyển giao công nghệ. + Kế hoạch, tiến độ, thời hạn, địa điểm và phương thức CGCN. + Giá cả và phương thức thanh toán. - Ngôn ngữ của hợp đồng CGCN: Hợp đồng và các văn bản kèm theo phải được lập bằng tiếng Việt và có thể được lập thêm bằng tiếng nước ngoài thông dụng do các bên thoả thuận. - Nghĩa vụ bảo mật trong việc cấp giấy phép CGCN: + Cơ quan, cá nhân có trách nhiệm trong việc cấp Giấy phép CGCN có trách nhiệm giữ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép. Dịch vụ chuyển giao công nghệ - Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ. - Nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ có 2 nguyên tắc cơ bản: + Thực hiện thông qua hợp đồng bằng văn bản hoặc hình thức khác theo quy định của pháp luật. + Hợp đồng được giao kết và thực hiện theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ hay theo quy định của Luật dân sự, Luật thương mại hiện hành và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Dịch vụ giám định công nghệ: Là hoạt động kiểm tra, đánh giá để xác định mức độ đạt được của công nghệ đã chuyển giao theo hợp đồng chuyển giao công nghệ trong thực tế tại thời điểm giám định công nghệ so với các nội dung của hợp đồng đã được đăng ký. Có 2 nội dung giám định công nghệ: - Giám định công nghệ dự án đầu tư: Là đánh giá sự phù hợp và tính đồng bộ của máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất so với yêu cầu nêu trong dự án. Đánh giá chất lượng thực tế của máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất với chất lượng thực tế của máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất so với các tiêu chí đã nêu trong hồ sơ dự án. - Giám định công nghệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ; - Đánh giá về tính tiên tiến của công nghệ và thiết bị sản xuất; - Chất lượng sản phẩm được sản xuất nhờ việc áp dụng công nghệ được chuyển giao so với tiêu chuẩn chất lượng đã thoả thuận. - Đánh giá về mức độ hoàn thành các nội dung công nghệ được chuyển giao so với nội dung đã nêu trong hợp đồng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THIẾT BỊ CÔNG NGHỆ TRONG XÍ NGHIỆP XI MĂNG NỘI THƯƠNG CỦA CÔNG TY XÂY LẮP THƯƠNG MẠI I I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY XÂY LẮP THƯƠNG MẠI I 1. Quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm vừa qua. a/ Về nhiệm vụ xây lắp: Mục tiêu là phát triển nhiệm vụ xây lắp theo định hướng kết hợp mở rộng công tác tiếp thị nhận thầu xây lắp, với việc tìm kiếm được cơ hội đầu tư xây dựng dự án nhà ở, cơ sở sản xuất khu công nghiệp để chủ động hoạt động nhiệm vụ xây lắp cho những năm sau. Trong năm Công ty Xây Lắp Thương Mại I triển khai xây dựng được một số dự án: + Dự án xây dựng khu đô thị Trần Hưng Đạo tại thị xã phủ lý tỉnh Hà Nam (trên 400 tỷ đồng) Sau khi được UBND tỉnh duyệt dự án, Công ty tiến hành các bước đầu tư tiến hành xác lập kế hoạch đền bù, sau đó xây dựng cơ sở hạ tầng. + Dự án đầu tư xây dựng nhà ở trên cơ sở tận dụng quỹ đất của Công ty quản lý. Làm thủ tục chuyển đổi đất khu vực Vĩnh Tuy Hà Nội xây dựng dự án đầu tư xây dựng nhà ở cao cấp để bán và làm văn phòng cho thuê. + Dự án nhà A13 Mai Động Hà Nội của Bộ Thương mại(10tỷ đồng). Sau khi dự án được phê duyệt sẽ tiến hành khởi công và hoàn hành phần thô năm 2003. Trong năm 2006 Công ty xây lắp thương mại I đã được UBND thành phố Hà Nội chọn nhận thầu 2 công trình lớn: + Công trình hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp vừa và nhỏ huyện Từ Liêm Hà Nội (26 tỷ đồng). + Công trình hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp vừa và nhỏ huyện Đông Anh, Hà Nội (12tỷ đồng) Các công trình nhận thầu xây lắp tập trung vào một số thị trường trọng điểm: Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Công ty dự kiến công việc nhiệm vụ xây lắp hiện nay chủ yếu tập trung vào các dự án, nên không hoạt động tràn lan khắp thị trường các tỉnh thành mà tập trung vào một số thị trường đã quan hệ lâu dài. Để thực hiện nhiệm vụ xây lắp Công ty sẽ đầu tư trang thiết bị, máy móc và dụng cụ thi công như :giáo, cốt pha định hình để đáp ứng tiến độ thi công và chất lượng kỹ, mỹ thuật công trình. b/ Về nhiệm vụ sản xuất: Năm 2003-2005 đầu tư nâng cấp công nghệ sản xuất xi măng tại xí nghiệp Xi măng nội thương với hai hệ thống trong dây truyyền sản xuất là: Hệ thống dây chuyền vào liệu và hệ thống dây chuyền đóng bao. Năm 2006 đầu tư thay thế Máy nghiền xi măng công suất 2 Tấn/h lên 7 Tấn/h. Xây dựng dự án đầu tư lò quay để nâng cao chất lượng xi măng và công suất sản xuất lên 5- 10 vạn tấn/năm. Xây dựng một xưởng sản xuất : + Sản xuất sản phẩm thép phục vụ cho nghành xây dựng. + Sản xuất cửa bằng gỗ nhân tạo. Chuẩn bị cho việc lập dự án đầu tư sản xuất gỗ ván ép vào năm 2004- 2005 với quy mô đầu tư lớn. c/ Kế hoạch kinh doanh : + Kinh doanh xuất khẩu: Mục tiêu phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu sang thị trường Trung Quốc Thái Lan trên cơ sở xây dựng nền tảng vững chắc các mặt hàng nông, lâm sản và năm 2006 Công ty đã xây dựng được mặt hàng xuất khẩu thường xuyên: Tinh bột sắn, Than gáo dừa, Cao su. + Kinh doanh nhập khẩu Mục tiêu là mở rộng bạn hàng với khách hàng nhiều năm đã quan hệ như Cộng hoà UCRAINA và Liên bang Nga, đã xây dựng được mặt hàng nhập khẩu là : Phôi thép, Thép cuộn, Thép hình các loại và một số thiết bị máy móc. d/ Về hoạt động kinh doanh quản lý nhà: - Xây dựng dự án tận dụng quỹ đất. Làm thủ tục bàn giao cho sở nhà đất Hà Nội. Xây dựng nhà ở trên cơ sở tận dụng quỹ đất. Cơ chế quản lý vận hành. Tổ chức mạng lưới gọn nhẹ, phù hợp với cơ cấu kế hoạch. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý, xây dựng quy
Tài liệu liên quan