Đề tài Sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như vai trò của nó

Loài người từ khi ra đời đã trải qua biết bao biến động, thăng trầm. Cùng với sự phát triển của xã hội, lịch sử thì những giá trị được coi là chuẩn mực về nhân cách cũng dần dần được định hình, phát triển, biến đổi phù hợp với đời sống. Xã hội càng phát triển lên cao thì những yêu cầu về nhân cách càng được coi trọng.

doc23 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như vai trò của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Loài người từ khi ra đời đã trải qua biết bao biến động, thăng trầm. Cùng với sự phát triển của xã hội, lịch sử thì những giá trị được coi là chuẩn mực về nhân cách cũng dần dần được định hình, phát triển, biến đổi phù hợp với đời sống. Xã hội càng phát triển lên cao thì những yêu cầu về nhân cách càng được coi trọng. Đặt trong bối cảnh nước ta, khi mà ta đã mở cửa nền kinh tế thị trường, khi mà ta đã gia nhập rất nhiều tổ chức thế giới như WTO, ASEAN... thì những vấn đề nhân cách cần được đặt ra một cách cấp thiết. Bước vào thời kỳ mới thì những giá trị chuẩn mực về nhân cách của ta trước đây cũng dần thay đổi. Trong môi trường toàn cầu hoá, chúng ta có thể nói nhiều hơn đến sự tự do với tính cách là dấu hiệu của sự phát triển nhân cách một cách đầy đủ. Nhưng môi trường ấy cùng với sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ bên ngoài vào cũng rất dễ dẫn đến sự phát triển méo mó về nhân cách gây khó khăn cho việc xây dựng và phát triển nhân cách. Bởi lẽ, những chuẩn mực cũ đã lỗi thời nhưng trong nhiều trường hợp vẫn được ngộ nhận là giá trị. Những chuẩn mực mới đang được hình thành chưa đủ sức xác lập tính phổ biến trong hiệu lực định hướng nhân cách. Bên cạnh đó, yêu cầu hội nhập kinh tế, giao lưu văn hoá dẫn đến sự du nhập những giá trị, những chuẩn mực ngoại lai. Trong những chuẩn mực này, có cái là cần thiết đối với sự nghiệp hiện đại hoá đất nước, có cái lại thể hiện như là phản giá trị cần đề kháng. Sự đan xen giữa giá trị và phản giá trị trong những chuẩn mực về nhân cách hiện nay làm cho nhân cách khó khăn trong sự xác định phương hướng, lựa chọn và thực hiện hành vi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố liên quan đến sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như vai trò của chúng là rất cần thiết. Bởi có sự hiểu biết đó thì mỗi cá nhân có thể dễ dàng hơn trong sự định hướng nhân cách cho mình. Đặc biệt, vấn đề này còn rất cần với sinh viên Việt Nam hiện nay. Họ đang được sống trong một môi trường rất mới, trong một thời đại đầy năng động. Họ đang trong qúa trình hoàn thiện về nhân cách. Rất cần ở thế hệ trẻ này sự định hướng một cách đúng đắn những chuẩn mực về nhân cách để từ đó có sự rèn luyện cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vì vậy, hiểu biết về vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách càng cần thiết. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Khái niệm nhân cách. Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ. Chúng ta chỉ có thể nói đến con người như là một nhân cách, bắt đầu từ một thời kỳ nào đó trong quá trình phát triển của nó. Không ai nói đến nhân cách của một đứa trẻ 2 tuổi cả. Nói cách khác, không phải mọi cá thể người, với cá tính của mình đều là nhân cách cả. Vậy câu hỏi được đặt ra: Nhân cách là gì. Quan niệm sinh vật hoá nhân cách:Coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc điểm hình thể (Krest Chmev), góc mặt (C.Lombrozo), thể trạng (Sheldon), bản năng vô thức (S.Freud),... Quan điểm xã hội học hoá nhân cách: Lấy quan hệ xã hội (gia đình, họ hàng, làng xóm...) để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính của cá nhân đó. Trong số những quan niệm trên, có quan niệm chỉ chú ý đến cái chung, bỏ qua cái riêng trong nhân cách, đồng nhất nhân cách với con người. Ngược lại, một số quan niệm chỉ chú ý tính đơn nhất có một không hai của nhân cách. Quan niệm khoa học về nhân cách: Các nhà tâm lý học khoa học cho rằng khái niệm nhân cách là một phạm trù xã hội, có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội được chuyển vảo trong mỗi con người. Có thể nêu lên một số định nghĩa nhân cách như sau: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định” (A.G.Covaliov). “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lý, qui định hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội” (E.V.Sôrôkhôva). Theo A.N.Leonchev, nhân cách không phải được sinh ra mà được hình thành. Theo nhà tâm lý học Xô Viết X.L.Rubinstein đã viết: “Con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của mình với những người xung quanh một cách có ý thức. [1,178]. Nhìn chung thì nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh được biểu hiện trong niềm tin của họ, trong thế giới quan, trong thái độ của họ đối với những người khác nhưng điều chủ yếu nhất là trong hoạt động giao tiếp của họ. Quan hệ của con người đối với bản thân mình được biểu hiện trong những biểu tượng của họ và của bản thân mình, trong sự tự đánh giá của họ, trong những lý tưởng của họ, trong cái mà họ muốn nhìn nhận như vậy. Triết học Mác – Lênin quan niệm: “Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân” [10,68]. Đồng thời, C.Mác khi coi nhân cách là bản chất con người đã định nghĩa: “Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại với từng cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của mình, nó là tổng hoà của tất cả các quan hệ xã hội...”. Trong quá trình sống của mình, con người đã làm biến đổi các phẩm chất tự nhiên của mình, nhưng những biến đổi đó không tạo ra nhân cách. Nhân cách được hình thành và phát triển như những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân đang lớn lên và đang được biến đổi, bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình. Chính trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, các đặc điểm của họ với tư cách là cá tính được biến đổi và trở thành những đặc điểm mang tính người đích thực, tính xã hội - đạo đức. Nói cách khác, không phải sự biến đổi các đặc điểm cá thể của con người bị thay đổi là nguyên nhân của sự hình thành con người như là một nhân cách mà ngược lại sự hình thành con người như một nhân cách là nguyên nhân của sự biến đổi và phát triển các đặc điểm của con người. Từ đó ta có thể định nghĩa: “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc giá trị xã hội của người ấy”. II. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Theo quan điểm tâm lý học macxit, không phải con người sinh ra đã có sẵn nhân cách và cũng không phải nó được bộc lộ dần dần từ các bản năng nguyên thuỷ. Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triền trong quá trình sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lý học nổi tiếng A.N.Leonchiep cũng chỉ ra rằng: Nhân cách cụ thể là nhân cách con người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan hệ xã hội mà nó gắn bó. Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố: sinh thể, môi trường, giáo dục và tự giáo dục, hoạt động và giao tiếp. 1. Yếu tố sinh thể có vai trò tạo tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng xương bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã hội cụ thể. Ngay từ lúc đứa trẻ sinh ra đã có những đặc điểm hình thái sinh lý của con người bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Theo sinh vật học hiện đại, di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn. Trong khi đó, những đặc điểm giải phẫu sinh lý của cá thể ngoài những yếu tố do di truyền tạo nên, còn có những yếu tố riêng tự tạo do sự vận động và phát triển của cá thể. Những yếu tố như thế đối với con người có ngay từ trong môi trường bào thai của mẹ. Chính vì vậy, một cá thể vừa mang đặc điểm giải phẫu sinh lý của cha mẹ vừa có những cái gì đó của riêng nó. Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm về cấu tạo và chức năng cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của các giác quan và não. Những đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao được biểu hiện ngay từ những ngày đầu của cá thể. Tuy nhiên, không thể kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách. Những quan sát khoa học về quá trình phát triển của trẻ sinh đôi cùng trứng cũng chỉ ra rằng, sự tương đồng rất cao của trí nhớ hình ảnh, âm thanh ở chúng đã mất dần cùng với sự phát triển của lứa tuổi do tác động của hoàn cảnh và tính tích cực riêng của mỗi cá thể. Bất cứ một chức năng tâm lý nào mang bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của bản thân cá nhân đó và trong điều kiện của xã hội loài người. Tai âm nhạc của MôZa, mắt hội hoạ của Raphaen sẽ không tự phát triển những khả năng tiềm tàng của nó một khi thiếu môi trường, nhu cầu và sự rèn luyện. Cùng một kiểu hệ thần kinh nhiều loại năng lực, nhiều loại tính cách khác nhau có thể được hình thành và ngược lại. Để nhận thức đúng vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự phát triển tâm lý nhân cách, ta cần phải thừa nhận một thực tế là mọi cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình. Hơn thế, hoạt động tâm – sinh lý của con người lại có khả năng bù trừ (sự thiếu hụt của giác quan này có thể làm tăng tính nhạy cảm của giác quan khác, một chức năng tâm lý bị huỷ hoại có thể được khôi phục bằng cách luyện tập để thiết lập một hệ thống các chức năng mới trên vỏ não để thích ứng với chức năng đó. Ngoài ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng hoạt động cụ thể là khác nhau. Chẳng hạn, khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh cần phải được phát triển và bồi dưỡng từ thời thơ ấu. Nó là đặc điểm di truyền, khác với những đặc điểm phát triển khác của cơ thể. Bên cạnh đó, sự phát triển không bình thường của cơ thể con người cũng ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Ví dụ: người có dị tật hay người thấp bé thường nảy sinh tâm lý tự ti, không thích thể hiện mình ở giữa đám đông. Hoặc những người điếc bao giờ cũng nói to vì họ tưởng người khác cũng khó nghe như họ. Rõ ràng, yếu tố sinh thể đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất các hiện tượng tâm lý - những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Từ đó có thể khẳng định vai trò tạo tiền đề vật chất của yếu tố sinh thể đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. 2. Yếu tố môi trường. Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có thể phân thành 2 loại: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. 2.1. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định với những độc đáo riêng về hoàn cảnh địa lý. Những điều kiện ấy qui định đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính nghề nghiệp và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, qui định giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói, tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự n hiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống. Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm lý nào đó của bản địa, của nghề nghiệp cũng có thể được hiểu theo logic ấy. Nhân cách như là một thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp - những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy mà qua phương thức sống của chính bản thân đó. Ví dụ, những người sống ở nơi gần biển thì thường làm nghề đi biển, dạn dày với nắng gió. Vì vậy họ thường phát triển theo lối sống mạnh mẽ, từng trải nhưng vô cùng thuần hậu. Một số nhà tâm lý học hiện đại cho rằng, hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định trong sự phát triển tâm lý nhân cách. Khác với quan điểm trên, một số tác giả của tâm lý học phương Tây lại đề cao vai trò của điều kiện hoàn cảnh sống tự nhiên. Họ đã giải thích nguyên nhân một số thói xấu hay đức tính cao quý của dân tộc này hay dân tộc khác bằng hoàn cảnh địa lý: cá tính của người phương Bắc thì mạnh mẽ nhưng lạnh nhạt, của người phương Nam thì yếu ớt nhưng xởi lởi, dễ gần. Thậm chí, nguyên nhân của hành động chiến tranh xâm lược của một số nước Tây Âu cũng được giải thích bằng hoàn cảnh địa lý mang tính kích thích. Đó là một quan điểm sai lầm và thiếu tính khoa học. 2.2. Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý nhân cách. Không có sự tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc sống trong một xã hội quá đơn điệu thì cơ thể sẽ lớn lên và phát triển trong trạng thái của động vật hoặc sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác sĩ Sing, người Ấn Độ, có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng 2 chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng 4 chi khá nhanh. Người ta dạy nói Kamala trong 4 năm nhưng cô chỉ nói được 2 từ. Cô không thể thành người thực sự và 18 tuổi thì qua đời. Sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhận xét của C.Mác: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Như vậy, có thể thấy, đứa trẻ ra đời mới chỉ như một con người “dự bị”. Nó không thể trở thành con người nếu bị cô lập, tách khỏi đời sống xã hội, nó cần phải học để trở thành người. Trong “bản thảo kinh tế triết học” năm 1844, C.Mác viết: “cá nhân là thực thể xã hội”, cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó – ngay cả nếu nó không được biểu hiện dưới hình thức trực tiếp của biểu hiện sinh hoạt tập thể, được thực hiện cùng với những người khác là biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội”. Chính sự gia nhập xã hội mà đứa trẻ và hành vi của nó mang nội dung xã hội. Đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử và xã hội để được chuẩn bị bước vào cuộc sống lao động, văn hoá của thời đại. Quan hệ sản xuất qui định nội dung chủ yếu của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách. Tâm lý nhân cách lại phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này hay mức độ khác trong vai trò xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lý tưởng phụ thuộc không ít vào vai trò ấy. Đặc tính của quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị pháp luật biểu hiện qua tư tưởng, đạo đức và ở mức độ khác nhau qua phong tục, tập quán. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có thể lựa chọn và do đó nó lựa chọn những yếu tố tác động của hoàn cảnh xã hội vốn bao giờ cũng phức tạp, phản ứng trở lại một cách khác nhau trước những tác động đó. Chẳng thế mà Mác viết: “hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người tạo ra hoàn cảnh”. Trong môi trường xã hội ta còn thấy những hiện tượng tâm lý xã hội quần chúng khác ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Dư luận và tâm trạng chung, đó là sự phán xét đánh giá của sự đông người về sự kiện đời sống xã hội của hoạt động tập thể của hành vi cá nhân. Dư luận được hình thành thầm lặng hoặc có ý thức. Có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát triển trên tâm trạng xã hội và có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó. Tâm trạng chung: Bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan - sức phấn đấu chung của nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng chung đó. Ví dụ: lời nói, cử chỉ, việc làm, cách nhìn, nếp nghĩ của một thành viên đều có muôn màu muôn vẻ của tâm trạng chung đó, tình cảm cuả nhân cách được kết tinh dần dần từ đó. Ta có thể thấy tâm trạng chung của một gia đình, một nhóm bạn, một thế hệ, một dân tộc, một thời đại... Thi đua: Là phương thức tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm và tập thể làm tăng kết quả hoạt động của nhau. Nhiều phẩm chất nhân cách, tập thể được phát triển qua thi đua.Ví dụ: sự thi đua trong lớp học nhằm đạt kết quả cao trong học tập sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ở mỗi thành viên trong lớp sự nỗ lực học tập. Bắt chước: Thể hiện ra trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bắt chước diễn ra một cách có ý thức hay không có ý thức, bắt chước trong cách giao tiếp, ngôn ngữ, trong ăn mặc. Đặc biệt trẻ con trong độ tuổi ấu thơ rất hay bắt chước người lớn. Vì vậy, cách xử sự của người lớn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ sau này. Nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử - cụ thể mà cá nhân đó sống. C.Mác đã nói: “Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội”. Do vậy, ở mỗi thời đại khác nhau, như thời Cổ đại, Trung cổ, Cận đại, Hiện đại... có những kiểu loại nhân cách khác nhau. Thời cổ đại, khi nền kinh tế chưa phát triển, của cải còn ít, con người phải sống phụ thuộc vào tập thể, nhân cách mỗi người hoà vào nhân cách tập thể. Thời Trung cổ, với sự ra đời của Kitô giáo, nhân cách chủ yếu hướng về đời sống tinh thần, về những giá trị đạo đức thuần tuý, con người sống nhưng luôn chuẩn bị cho đời sống của mình sau khi chết. Thời Cận đại với sự khẳng định giá trị con người, nhân cách mang tính độc lập sáng tạo... [7,2]. 3. Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Môi trường xã hội tác động đến mỗi cá nhân một cách tự phát và tự giác nhưng chủ yếu bằng con đường tự giác là giáo dục. Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. [1,211]. Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường, xã hội bao gồm cả dạy học và cách tác động giáo dục khác đến con người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xem như là “quá trình tác động có ý thức, có mục đích và có kết quả về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh trong gia đình và cơ quan giáo dục mà nhà trường” [1,211]. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ được thể hiện ở những điểm sau: - Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo chiều hướng đó. Điều này được thể hiện qua việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo của nhà trường và các tổ chức giáo dục mà nhà trường. - Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm xã hội - lịch sử đã được kết tinh trong những sản phẩm văn hoá vật chất và tinh thần của nhân loại. Thế hệ trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm đó để biến thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên nhân cách của mình. Chẳng thế mà tục ngữ, thành ngữ, ca dao được nhân dân ca ngợi là “túi khôn của nhân loại”. - Giáo dục có thể mang lại những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại. Chẳng hạn, nếu không bị khuyết tật gì, thì theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn nhất định, đứa trẻ sẽ biết nó
Tài liệu liên quan