Gia đình là một trong những thiết chế xã hội cơ bản - đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân. Với tư cách là một xã hội thu nhỏ, gia đình phản ánh đầy đủ các vấn đề của xã hội. Chính vì vậy, đã từ lâu, gia đình là chủ đề quan trọng thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt là các nhà xã hội học. Có thể kể đến quan điểm về gia đình của A. Comte, Spencer, Weber, Durkheim. hay quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền. Vậy qua từng thời kì lịch sử, từng chế độ xã hội thì quan điểm về gia đình của họ có gì khác nhau không? Sau đây là một vài hiểu biết, từ đó đi đến phân tích sự khác nhau về quan điểm gia đình giữa các nhà xã hội học kinh điển với chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền.
Bài tiểu luận được chia làm 2 phần:
- phần 1: khái niệm về gia đình và chủ nghĩa nữ quyền
- phần 2: phân tích sự khác biệt về quan điểm gia đình giữa các nhà xã hội học kinh điển với chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền.
16 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2161 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự khác biệt về quan điểm gia đình giữa các nhà xã hội học kinh điển với chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự khác biệt về quan điểm gia đình giữa các nhà xã hội học kinh điển với chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền
Gia đình là một trong những thiết chế xã hội cơ bản - đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân. Với tư cách là một xã hội thu nhỏ, gia đình phản ánh đầy đủ các vấn đề của xã hội. Chính vì vậy, đã từ lâu, gia đình là chủ đề quan trọng thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt là các nhà xã hội học. Có thể kể đến quan điểm về gia đình của A. Comte, Spencer, Weber, Durkheim... hay quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền. Vậy qua từng thời kì lịch sử, từng chế độ xã hội thì quan điểm về gia đình của họ có gì khác nhau không? Sau đây là một vài hiểu biết, từ đó đi đến phân tích sự khác nhau về quan điểm gia đình giữa các nhà xã hội học kinh điển với chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền.
Bài tiểu luận được chia làm 2 phần:
- phần 1: khái niệm về gia đình và chủ nghĩa nữ quyền
- phần 2: phân tích sự khác biệt về quan điểm gia đình giữa các nhà xã hội học kinh điển với chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền.
I. Khái niệm
1. Gia đình
- Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” năm 1846- Mark đã chỉ ra khái niệm chức năng của gia đình:
“ Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người cần tái tạo ra những con người khác nhau, sinh sôi nảy nở. Đó là quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Đó là gia đình”
- Đại từ điển Tiếng việt: gia đình tập hợp những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống sống trong cùng một nhà.
- Một định nghĩa khác:
Gia đình là một tập thể xã hội có từ hai người trở lên trên cơ sở huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau.
Gia đình là một cơ chế trung tâm của xã hội loài người là thiết chế xã hội đặc biệt tập hợp nhau về thân phận vai trò chuẩn mực và giá trị để đạt tới các mục tiêu xã hội quan trọng. Các mục tiêu này bao gồm sự kiểm soát xã hội về sinh đẻ, xã hội hoá của thế hệ mới và vị trí xã hội của trẻ em trong hệ thống xã hội rộng lớn.
Gia đình mang dấu ấn của xã hội và đến lượt mình gia đình cũng đóng góp chủ yếu cho việc gìn giữ và phát triển xã hội,
Các mối quan hệ trong gia đình được sử dụng là sự nối kết hợp đồng, sự gắn bó và bổn phận giữa con người với nhau và nó tạo ra một hình mẫu riêng biệt.
( Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình nhưng nhìn chung đều chỉ ra được yếu tố cơ bản trong gia đình là hôn nhân và huyết thống. Điều này quy định tính đặc biệt ở thiết chế xã hội: Gia đình.
2. Chủ nghĩa nữ quyền
Trong những năm 1970 - 1980 quan điểm nữ quyền chi phối hầu hết các cuộc thảo luận và nghiên cứu về gia đình ở Mỹ và các nước phương Tây. Chủ nghĩa nữ quyền đã làm đảo lộn và thách thức các quan niệm truyền thống trong nghiên cứu gia đình và đang đặt ra nhiều câu hỏi cả về lí thuyết và phương pháp nghiên cứu gia đình. Vậy thuyết nữ quyền là gì?
Thuyết nữ quyền là một hệ thống tư tưởng trải rộng và khái quát về đời sống xã hội và kinh nghiệm con người được phát triển từ một viễn cảnh phụ nữ - trung tâm. Thuyết nữ quyền có tính chất phụ nữ - trung tâm theo ba cách thức. Trước hết đối tượng điều tra là hoàn cảnh và những kinh nghiệm của giới nữ trong xã hội. Thứ 2, nó coi phụ nữ là các “ chủ thể” trung tâm trong quá trình điều tra - nghĩa là, nó tìm cách nhìn thế giới từ sự khác biệt của phụ nữ trong thế giới xã hội. Thứ 3, thuyết nữ quyền có tính chất phê phán và chính trị với tư cách của phụ nữ, tìm cách tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho nữ giới, từ đó lí luận cho cả nhân loại.
Phong trào nữ quyền chia làm 2 giai đoạn:
Làn sóng nữ quyền thứ nhất: tập trung vào cuộc tranh luận về vai trò quyết định của vật chất, về các khác biệt kinh tế giữa nam và nữ.
Làn sóng nữ quyền thứ 2: tập trung vào mối quan hê tái sản xuất - sản xuất, sự phân công lao động theo giới trong mối liên quan với các quan hệ về quyền lực giữa nam và nữ, và các quan hệ xã hội cụ thể của các phương thức sản xuất tức là các quan hệ giai cấp.
Nhìn chung, thuyết nữ quyền- đó là cuộc đấu tranh xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa đàn ông và đàn bà, nhưng không chỉ là những biện pháp nâng cao địa vị người phụ nữ mà trước hết làm thay đổi cách suy nghĩ của mỗi người phụ nữ về vị trí và vai trò của họ. Đó là một sự thay đổi mà hậu quả có thể đảo lộn xã hội tương lai. Simon de Beauvoir - một đại diện thuyết nữ quyền hiện sinh đã nói: “Người ta không phải sinh ra là phụ nữ mà là trở thành phụ nữ”. Đặc biệt, thuyết nữ quyền còn rất quan tâm đến vị trí và vai trò của phụ nữ trong gia đình.
II. Sự khác nhau về quan điểm gia đình của các nhà xã hội học kinh điển với chủ nghĩa Mac- Lenin và chủ nghĩa nữ quyền
1. Vị trí và vai trò của người đàn ông và người phụ nữ trong gia đình
* Đối với các nhà xã hội học kinh điển hầu hết họ đều đề cao vai trò của đàn ông, nhấn mạnh bản chất gia trưởng trong gia đình. Ngược lại, chủ nghĩa nữ quyền cho rằng: sự tồn tại chế độ gia trưởng trong gia đình là nguồn gốc của sự áp bức phụ nữ trong hôn nhân.
Vậy chế độ gia trưởng là gì?
Chế độ gia trưởng theo nghĩa đen có nghĩa là “ luật lệ của người cha” hoặc “ gia trưởng”. Nó được dùng để miêu tả một loại gia đình đặc biệt - là gia đình do đàn ông thống trị.
Đó là một hộ gia đình lớn của một “ gia trưởng” bao gồm những người phụ nữ, những người đàn ông ít tuổi, con cái, nô lệ và những người hầu trong nhà được đặt dưới luật lệ của người đàn ông gia trưởng. Hiện nay chế độ gia trưởng được sử dụng rộng rãi hơn để chỉ sự thống trị của đàn ông đối với phụ nữ ( Kali Primaries ).
Hệ tư tưởng gia trưởng cho rằng đàn ông là siêu việt hơn phụ nữ. Phụ nữ bị kiểm soát bởi đàn ông. Chế độ gia trưởng có thể khác nhau trong các giai cấp, các dân tộc và các giai đoạn lịch sử nhưng nguyên tắc chung là đàn ông kiểm soát phụ nữ.
Thiết chế gia đình, đơn vị cơ sở của xã hội được coi là một thiết chế có tính gia trưởng nhất. Đàn ông là người lãnh đạo hộ gia đình, trong gia đình ông ta kiểm soát tình dục, lao động sản xuất, sinh sản và sự di chuyển của phụ nữ. Có một hệ thống tôn ti trong đó đàn ông là người cấp trên và thống trị, phụ nữ là người cấp dưới và bị trị.
Gia đình cũng có một vị trí quan trọng trong việc xã hội hoá các thế hệ tiếp theo về các giá trị gia trưởng. Trong gia đình con người học những bài đầu tiên về tôn ti trật tự, về sự tuân thủ, sự phân biệt đối xử. Con trai học tính quyết đoán và thống trị, bé gái học sự phục tùng, cách cư xử bất bình đẳng.
Về nguyên tắc, chế độ gia trưởng dựa trên sự phân biệt đối xử giới tính, suy nghĩ cho rằng phái này bẩm sinh đã vượt trội hơn phái kia. Trong thế giới gia trưởng, phân biệt đối xử giới tính được thể hiện bằng suy nghĩ cho rằng nam giới bẩm sinh đã vượt trội hơn phái nữ, vì thế thống trị phái nữ là điều hợp lý.
Trên đây là một vài hiểu biết về chế độ gia trưởng. Qua đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn các nhà xã hội học kinh điển nhấn mạnh đến bản chất gia trưởng trong gia đình - đó chính là nhấn mạnh vai trò của người đàn ông - người chồng, là người có quyền lực tuyệt đối trong gia đình còn người phụ nữ - người vợ phải chịu sự thống trị của người đàn ông và đó là điều đương nhiên trong gia đình.
- A. Comte: người đại diện cho chủ nghĩa thực chứng - coi gia đình là một đơn vị xã hội để nghiên cứu xã hội. Ông nhấn mạnh bản chất gia trưởng trong gia đình: đàn ông lãnh đạo, là người đi làm, kiếm tiền. Còn phụ nữ ở nhà làm công việc nội trợ, chăm sóc chồng con.
- H. Spencer: Ông cho rằng: phụ nữ hoạt động cơ bản trong trong gia đình, coi nam giới là cầu nối giữa gia đình và các tổ chức xã hội khác. Theo ông, phong trào bình đẳng cho phụ nữ sẽ phá vỡ sự cân bằng của xã hội và gia đình.
- E. Durkheim: Trong cuốn “nhập môn gia đình”, ông giới thiệu những khía cạnh của mối quan hệ vợ chồng, con cái, dòng họ dựa trên các phương diện cá nhân và của cải, trình bày những yếu tố tác động đến ly hôn. Tuy nhiên, ông cũng chịu ảnh hưởng của chế độ gia trưởng. Ông cho rằng: phụ nữ phải chịu sự thống trị và kiểm soát của đàn ông trong gia đình. Xã hội phụ quyền chính là tổ chức xã hội bảo vệ cho họ.
......................
( Quan điểm này của các nhà xã hội học kinh điển rất khác so với quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền. Cả chủ nghĩa Mac - Lenin và chủ nghĩa nữ quyền đều coi gia đình là một thiết chế trung tâm của sự áp bức giới. Ở đó, luôn tồn tại tình trạng người phụ nữ bị phân biệt đối xử và bị người đàn ông trong gia đình kiểm soát. Điều đó là bất bình đẳng.
Trong cuốn “ Các nguồn gốc của gia đình - của chế độ tư hữu và nhà nước” được viết và xuất bản bởi Engels năm 1884, Engels đã cũng nói lên một thực tế là người đàn bà ngày càng mất đi địa vị quyền lực, mất quyền tự do tính giao theo kiểu chế độ quần hôn. Còn với người đàn ông thì ngược lại. Họ không những có quyền cai quản trong gia đình, xã hội mà ngay cả quyền tự do tính giao không những không bị mất đi mà còn được tăng cường.
Sự áp bức đầu tiên của xã hội loài người là sự áp bức của đàn ông đối với đàn bà. Thậm chí dưới chế độ tư hữu một vợ một chồng chỉ riêng đối với đàn bà. Nếu người vợ muốn vượt ra ngoài khuôn khổ ấy thì lập tức bị trừng trị nghiêm khắc. Thậm chí người chồng có thể giết vợ cũng chỉ là để thể hiện quyền lực của mình.
Trong tác phẩm “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” Mac cũng đề cập đến gia đình.
Như vậy cả Mac và Engels đều nhấn mạnh bất bình đẳng về giai cấp và giới vì vậy cần phải xây dựng một xã hội tươi đẹp hơn không có bóc lột tranh chấp giữa vợ và chồng.
Cũng giống như chủ nghĩa Mac - Lenin, chủ nghĩa nữ quyền không coi sự áp bức bóc lột phụ nữ là sản phẩm của cá nhân hay sự khác biệt về sinh học giữa phụ nữ và nam giới mà là sản phẩm thuộc cơ cấu xã hội. Chủ nghĩa nữ quyền bắt đầu từ sự nhận thức về sự áp bức bóc lột phụ nữ trong xã hội, từ đó hướng tới sự chú ý vào bên trong gia đình để khảo sát những cảm nghiệm của phụ nữ về lĩnh vực trong nhà. Họ nghi ngờ quan điểm coi gia đình là một đơn vị hài hoà, hợp tác, dựa trên cơ sở lợi ích chung và sự giúp đỡ lẫn nhau. Họ chứng minh rằng trong gia đình, quan hệ quyền lực là không ngang nhau và việc đó có nghĩa rằng những thành viên nhất định của gia đình được hưởng lợi nhiều hơn những thành viên khác.
Đối với các nhà nữ quyền thì gia đình phục vụ lợi ích của chế độ gia trưởng, lợi ích của đàn ông. Do đó nhiệm vụ trọng tâm của các nhà nữ quyền là chống lại sự áp bức phụ nữ trong hôn nhân. Người đầu tiên đưa ra quan điểm gia đình phục vụ lợi ích của chế độ gia trưởng là của nhà triết học và xã hội học người Pháp: Simon de Beauvoir. Từ Beavoir, các công trình phân tích nữ quyền về chế độ gia trưởng ngày càng phát triển, hoàn thiện và phổ biến. Phân tích nữ quyền về áp bức bóc lột phụ nữ trong gia đình thể hiện ở 3 lĩnh vực: Phân công lao động theo giới trong gia đình, quyền quyết định trong gia đình và bạo lực giới trong gia đình.
1.1. Phân công lao động theo giới trong gia đình
- Khái niệm: Phân công lao động theo giới trong gia đình là sự phân chia nhiệm vụ giữa các thành viên trong gia đình.
- Thực trạng: Sự bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình thể hiện ở chỗ phụ nữ làm nhiều công việc gia đình với nhiều thời gian hơn nam giới trong khi họ vẫn có thể làm các công việc được trả công ngang bằng với nam giới.
- nguyên nhân: quan niệm truyền thống ( ảnh hưởng gia đình gia trưởng ): con gái thường làm việc nhà nhiều hơn con trai, nam giới là trụ cột kinh tế, là người kiếm cơm chính nuôi các thành viên trong gia đình.
Do bị ảnh hưởng bởi quan niệm truyền thống nên hầu hết các nhà xã hội học kinh điển đều cho rằng: đàn ông lao động kiếm tiền ở ngoài còn phụ nữ có nhiệm vụ là làm công việc nhà, chăm sóc chồng con.
Còn theo cách tiếp cận chức năng, sự bất bình đẳng về phân công lao động theo giới trong gia đình thường bị bỏ qua vì người ta cho rằng việc phụ nữ sinh đẻ, làm việc nhà, nuôi con, chăm sóc các thành viên gia đình, nam giới làm việc bên ngoài, kiếm tiền nuôi sống gia đình là điều hợp lý, không cần bàn cãi, hay theo cách diễn đạt của Parsons, đàn ông có vai trò công cụ, đàn bà có vai trò biểu cảm. Điều cần thiết là làm sao để hai giới thực hiện vai trò của mình một cách hoàn hảo nhất.
Tuy nhiên, theo quan điểm nữ quyền, đây là cách giải thích có tính nam trị, có lợi cho đàn ông. Nó không quan tâm đến lợi ích cũng như tâm trạng, suy nghĩ và nguyện vọng của người phụ nữ khi phải chấp nhận sự phân công lao động này. Theo các nhà nữ quyền thì sự phân chia công việc giữa các thành viên trong gia đình là hình thức rập khuôn của sự phân công lao động theo giới ( Mackintosh). Mặc dù sự phân công này có vẻ bề ngoài là công bằng về sự đóng góp kinh tế trong gia đình, nhưng phụ nữ trên thực tế là người cho nhiều và nhận ít ( Delphy, Hartmann). Quá trình trao đổi bất công bằng này được coi là sự phân tầng nội bộ trong cuộc sống gia đình, trong đó đàn ông được hưởng nhiều lợi ích hơn so với phụ nữ. Do đó sự phân công lao động theo giới trong gia đình được coi là khuôn mẫu của sự áp bức giới.
Các nhà nữ quyền thừa nhận vai trò mang thai, sinh đẻ là vai trò tự nhiên của phụ nữ nhưng không có lý do để nói rằng những công việc khác như nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình bao gồm nuôi con, chăm sóc các thành viên lớn tuổi, người già, người ốm...là thuộc về giới tính nữ hay đặc điểm sinh học của nữ. Đó là vấn đề thuộc hệ tư tưởng gia đình.
Qua các công trình nghiên cứu của Gravon và Okley cho thấy một thực tế trái ngược với lý thuyết chức năng về sự phân công lao động “tự nhiên” trong gia đình, ở đó các vai trò giới bổ sung cho nhau. Tình trạng này thể hiện vị trí thấp kém và bị bóc lột của người phụ nữ trong gia đình và bản chất phụ quyền của hầu hết các gia đình trong đó đàn ông là kẻ thống trị các quan hệ gia đình và duy trì hệ tư tưởng gia trưởng
Theo Okley - một đại biểu của thuyết nữ quyền cho rằng: lao động nội trợ của phụ nữ trong gia đình cần phải được coi như lao động được trả công, bởi vì nó tốn nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều công sức. Bà còn cho rằng chứng bệnh tâm thần, buồn chán, sự thất vọng và cô đơn là sự trải nghiệm của những người vợ nội trợ trong gia đình.
Theo các nhà nữ quyền tự do: mọi người chồng với thẩm quyền và sự tự do, buộc người vợ phải phục tùng, phụ thuộc, chủ yếu tập trung vào các hoạt động và công việc vặt của đời sống cách ly trong việc nội trợ gia đình.
Gavron.H đã sử dụng khái niệm “người vợ bị giam cầm” để đặt tên cho cuốn sách của mình. Qua nghiên cứu bà kết luận rằng: hầu hết những người vợ đều cảm thấy hôn nhân là một thứ cạm bẫy và là nơi bị giam hãm.
( Như vậy, qua các nghiên cứu của mình, thuyết nữ quyền tìm cách chứng minh đang tồn tại sự bất bình đẳng về phân công lao động trong chính gia đình của mình. Phụ nữ làm nhiều công việc gia đình với nhiều thời gian hơn nam giới trong khi họ vẫn có thể làm các công việc được trả công ngang bằng với nam giới. Họ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm sóc trẻ em và các công việc gia đình khác và coi đó thực sự là" công việc giá trị và nặng nhọc". Đây là quan điểm khác với quan điểm của các nhà xã hội học kinh điển. Họ cho rằng: những công việc nhà, chăm sóc các thành viên trong gia đình, mang thai và sinh đẻ là vai trò tự nhiên của phụ nữ.
1.2. Mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng trong gia đình
Phân công lao động theo giới là nguyên nhân dẫn đến tình trạng địa vị thấp kém, sự phụ thuộc của phụ nữ và bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong mối quan hệ quyền lực trong gia đình.
Theo Parsons, ông cho rằng sự trật tự trong những tương tác là một hệ thống xã hội vì những trật tự này không chỉ bắt nguồn riêng từ những hoạt động mà nó còn được đan kết trong những chuẩn mực và quy ước cao hơn. Ví dụ trong gia đình nho giáo tồn tại một cấu trúc sử, sự. Theo thuyết của Parsons, do những tương tác xã hội của các thành viên trong gia đình thì không bao giờ có sự thay đổi trật tự sử, sự. Có nghĩa là mọi người đàn ông sinh ra là sự ( được giáo dục), khi trưởng thành thì họ trở thành sự: là chủ gia đình, có nhiệm vụ giáo dục con cái và kiếm tiền. Mọi người phụ nữ mới sinh ra là sự và khi chết cũng là sự.
Còn theo Engels, ông cũng nhận ra phụ nữ hầu như không có quyền quyết định trong gia đình. Các hình thức hôn nhân trong các giai đoạn lịch sử là những bước tiến bộ của lịch sử loài người nhưng cũng nêu lên một thực tế là người phụ nữ ngày càng mất đi địa vị quyền lực, mất quyền tự do tính giao theo kiểu chế độ quần hôn. Người đàn ông không những có quyền cai quản trong gia đình, xã hội mà ngay cả quyền tự do tính giao không những không bị mất đi mà còn được tăng cường.
Trong gia đình, đàn ông là người lãnh đạo và ra quyết định, phụ nữ là người thực hiện các quyết định của đàn ông. Đàn ông kiểm soát và chi phối toàn bộ các nguồn lực, lợi ích của gia đình và kiểm soát cả bản thân người phụ nữ và các hoạt động của người phụ nữ.
Gerder Lerner cho rằng gia đình không chỉ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra hệ thống tôn ti trật tự gia trưởng bất bình đẳng mà còn củng cố và duy trì tôn ti trật tự đó. Theo Kamla Bhasin, sự kiểm soát của đàn ông đối với cuộc sống của phụ nữ thể hiện ở những lĩnh vực sau:
- Kiểm soát quyền sản xuất và lao động của phụ nữ:
Đàn ông kiểm soát lao động của phụ nữ ở bên ngoài gia đình theo những cách thức khác nhau. Họ buộc phụ nữ phải bán sức lao động hoặc ngăn cản phụ nữ làm việc. Họ có thể chiếm đoạt những cái mà phụ nữ kiếm được, họ có thể cho phép tuyển chọn phụ nữ cho những công việc không thường xuyên, phụ nữ bị loại khỏi ra những công việc được trả lương cao và buộc phải bán sức lao động ở những công việc được trả lương thấp hoặc làm việc tại nhà trong cái được gọi là "sản xuất gia đình".
- Kiểm soát quyền tái sinh sản của phụ nữ: Trong nhiều xã hội phụ nữ không được tự do quyết định số con họ muốn.Nhà nước gia trưởng cố gắng kiểm soát sinh sản của phụ nữ thông qua chương trình kế hoạch hoá gia đình. Nhà nước quyết định quy mô gia đình tốt nhất của dân số của đất nước, do đó tích cực động viên hoặc hạn chế phụ nữ có con. Chức năng làm mẹ là một trong những trọng tâm của các nhà phân tích nữ quyền cấp tiến về tình cảnh của phụ nữ. Theo các nhà nữ quyền cấp tiến, phụ nữ bị nô dịch hoá bởi gánh nặng làm mẹ và công việc nuôi dưỡng được đặt vào học và chỉ đặt vào họ. Chủ nghĩa nữ quyền không ủng hộ phá thai nhưng khẳng định rằng quyền quyết định sinh con nên thuộc chính bản thân phụ nữ hơn là nam giới - như chồng, bác sĩ và những nhà lập pháp.
- Kiểm soát toàn bộ tình dục của phụ nữ: Chủ nghĩa nữ quyền ủng hộ quyền của phái nữ kiểm soát hoạt động tình dục và sinh sản của riêng mình, tán thành quyền của phụ nữ nên có thông tin kiểm soát sinh sản. Một thực tế cho thấy là phần lớn phụ nữ bị động trong lĩnh vực này. Phụ nữ bị cưỡng bức cung cấp các dịch vụ tình dục cho những người đàn ông (chồng) của họ theo nhu cầu và mong muỗn của đàn ông. Sự cưỡng hiếp và đe doạ cưỡng hiếp là một khía cạnh khác trong sự thống trị tình dục đối với phụ nữ. Để kiểm soát tình dục của phụ nữ thì cách ăn mặc, thái độ, sự đi lại của họ bị kiểm soát rất chặt chẽ bởi những quy tắc ứng xử trong gia đình, xã hội, văn hoá và tôn giáo. Sự phân tích nữ quyền cấp tiến cho rằng phụ nữ trong chế độ gia trưởng không chỉ là những người mẹ mà còn là những nô lệ tình dục.
- Kiểm soát tính di động của phụ nữ: Để kiểm soát tình dục, sản xuất và sinh sản của phụ nữ, đàn ông cần phải kiểm soát tính cơ động của phụ nữ. Sự đòi hỏi trách nhiệm của người vợ, sự giới hạn phạm vi cuộc sống trong gia đình, việc cách ly nghiêm ngặt với nơi công cộng, giới hạn mối quan hệ giữa các giới tính... Phụ nữ được coi là một giới tính đặc biệt, bởi vì trên thực tế, đàn ông không phải là đối tượng của sự ép buộc tương tự.
- Kiểm soát tài sản và các nguồn lực kinh tế khác: Tài sản và các nguồn lực kinh tế khác đều do đàn ông kiểm soát. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc: "Phụ nữ làm hơn 60% số giờ làm việc trên thế giới, nhưng họ chỉ có 10% thu nhập của thế giới và làm chủ 1% của cải thế giới"
Như vậy, ngay cả trong quyền quyết định trong gia đình, người phụ nữ cũng bị kiểm soát. Các nhà nữ quyền tìm cách chứng minh rằng trong gia đình, quan hệ quyền lực là không ngang nhau, và việc đó