Từ buổi đầu bình minh cho tới nay lịch sử loài người đã trải qua năm thời kỳ lớn (theo quan điểm mác-xít), các thời kỳ có thời gian tồn tại khác nhau vậy nên ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì mỗi thời kỳ lại mang trong mình những bản chất hay đặc điểm riêng biệt mà ở thời kỳ khác lại không có được.
Thời kỳ xã hội nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm, là thời kỳ dài nhất trong lịch sử xã hội loài người, là thời kỳ mà tất cả các quốc gia đều phải trảo qua.
Thời kỳ cổ đại là thời đại xã hội chiếm hữu nô lệ khoảng 3000 năm trước công nguyên.
Thời kỳ trung đại là thời đại của xã hội phong kiến, bất đầu từ thế kỷ V sCN đến năm 1640 cách mạng tư sản Anh.
Thời kỳ cận đại, từ năm 1640 cho đến năm 1917, là thời đại của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tư sản Anh cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga.
Thời kỳ hiện đại là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga cho đến nay.
Như vậy trong mỗi thời kỳ (trừ xã hội nguyên thủy), còn bốn thời kỳ về sau mỗi thời đại đều có hình thái kinh tế xã hội tương ứng, các hình thái kinh tế xã hội sau ra đời sẽ phủ nhận các hình thái kinh tế xã hội cũ và ngày càng hoàn thiện hơn về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Khoa học lịch sử có liên quan tới tất cả các ngành khoa họa khác, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội.
Chính bởi vậy nên tôi chọn đề tài “Sự phân kỳ lịch sử thê giới” làm đề tài tiểu luân của mình.
40 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 6156 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự phân kỳ lịch sử thê giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Từ buổi đầu bình minh cho tới nay lịch sử loài người đã trải qua năm thời kỳ lớn (theo quan điểm mác-xít), các thời kỳ có thời gian tồn tại khác nhau vậy nên ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì mỗi thời kỳ lại mang trong mình những bản chất hay đặc điểm riêng biệt mà ở thời kỳ khác lại không có được.
Thời kỳ xã hội nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm, là thời kỳ dài nhất trong lịch sử xã hội loài người, là thời kỳ mà tất cả các quốc gia đều phải trảo qua.
Thời kỳ cổ đại là thời đại xã hội chiếm hữu nô lệ khoảng 3000 năm trước công nguyên.
Thời kỳ trung đại là thời đại của xã hội phong kiến, bất đầu từ thế kỷ V sCN đến năm 1640 cách mạng tư sản Anh.
Thời kỳ cận đại, từ năm 1640 cho đến năm 1917, là thời đại của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tư sản Anh cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga.
Thời kỳ hiện đại là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga cho đến nay.
Như vậy trong mỗi thời kỳ (trừ xã hội nguyên thủy), còn bốn thời kỳ về sau mỗi thời đại đều có hình thái kinh tế xã hội tương ứng, các hình thái kinh tế xã hội sau ra đời sẽ phủ nhận các hình thái kinh tế xã hội cũ và ngày càng hoàn thiện hơn về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Khoa học lịch sử có liên quan tới tất cả các ngành khoa họa khác, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội.
Chính bởi vậy nên tôi chọn đề tài “Sự phân kỳ lịch sử thê giới” làm đề tài tiểu luân của mình.
Chương I:
Thời kỳ xã hội nguyên thủy đến thời kỳ Trung đại
I. Xã hội nguyên thủy
Sự xuất hiện và đời sống của ngươì nguyên thủy
Lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ xã hội nguyên thủy. Thời kỳ này chiếm phần lớn thời gian của lịch sử nhân loại, nó bắt buộc tất cả các dân tộc phải đi qua vì đó là thời thơ ấu của họ. Cách ngày nay khoảng bốn triệu năm, một loài vượn đặc biệt đã chuyển biến thành vượn người–người thượng cổ. qua một quá trình tiến hóa lâu dài. Mười bốn vạn năm trước công nguyên người vượn tiến hóa thành người tinh khôn (nê-ăng-đéc-tan), bốn vạn năm trước công nguyên người tinh khôn tiến hóa thành người hiện đại(hô-mô-sa-piêng). Lý do chủ yếu của việc vượn đặc biệt chuyển hóa thành người là do lao động. F. Ăngghen cho rằng lao động cải biến cơ thể con vượn thành cơ thể của con người đứng thẳng.
Công xã thị tộc: Trải qua hàng triệu năm phát triển, bầy người nguyên thủy tiến lên một cộng đồng mới cao hơn: công xã thị tộc. Công xã thị tộc là cộng đồng người cố kết với nhau bởi quan hệ huyết thống, máu mủ, ruột rà. Hôn nhân đã theo chế độ ngoại tộc hôn, qui định nam nữ trong thị tộc là ruột thịt, nên không được kết hôn với nhau, và hình thức hôn nhân tập thể làm cho con cái chỉ biết mặt mẹ nên theo họ mẹ (mẫu hệ).
Trong thị tộc mẫu hệ kinh tế hái lượm vẫn là chủ yếu. Người nguyên thủy thời kỳ này cho rằng vạn vật đều có linh hồn.
Chế đọ mẫu hệ là thời kỳ hưng thịnh nhất của xã hội nguyên thủy. Nó kéo dài khoảng 18.000 năm trong lịch sử đến nay chế độ mẫu hệ vẫn còn nhiều tàn dư ở một số dân tộc trên thế giới.
Thị tộc phụ quyền: Ham muốn của người nguyên thủy cũng như con người về sau là làm thế nào để nâng cao năng suất lao động. 4.000 năm trước công nguyên con người đã tìm ra đồng. Người nguyên thủy đã phát minh ra cung tên mà tầm quan trọng của nó được F. Ăngghen đánh giá như phát minh ra sung của thời cận đại. các ngành nghề thủ công, chăn nuôi … cũng phát triển một cách mạnh mẽ. Một cuộc phân công lao động và sự chuyển biến vị trí giữa đàn ông và đàn bà bắt đầu. Thị tộc mẫu quyền nhường chỗ cho thị tộc phụ quyền.
Công xã thị tộc tan rã – xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện: Công cụ đá mới tinh xảo, công cụ đồ đồng, đồ sắt xuất hiện đã làm năng suất lao động tăng cao cuối thời kỳ phụ quyền, điều đó đã tác động lớn đến tâm lý cộng đồng. Suốt thời kỳ dài của xã hội nguyên thủy, do năng suất lao động thấp kém, kinh tế hái lượm khó khăn con người phải duy trì cộng đồng thị tộc để nương tựa nhau. Kinh tế phát triển cuộc sống gia đình một vợ một chồng đã bắt đầu hình thành, từ gia đình đối ngấu tách ra thành gia đình một vợ một chồng. Xã hội xuất hiện chế đọ tư hữu. như vậy, xuất hiện gia đình một vợ một chồng đã dẫn tới chế đọ tư hữu, chế độ tư hữu đã phân hóa xã hội thành giai cấp, bọn giàu có hợp thành giai cấp chủ nô, giai cấp áp bức, thống trị, bóc lột. Giai cấp thứ hai là nông dân, thị dân nghèo có một ít tài sản, nhưng có thể biến thành nô lệ nếu họ bị phá sản. giai cấp thứ ba là giai cấp nô lệ. Giữa các giai cấp khác nhau về quyền lợi họ sẽ xuất hiện mâu thuẫn, xung đột nhau: giai cấp chủ nô sẽ xuất hiện một công cụ, bộ máy giúp họ cai trị, bóc lột, đàn áp được đa số. Bộ máy đó chính là nhà nước. nhà nước là công cụ của giai cấp này để thống trị, nhà nước bảo vệ mọi quyền lợi của giai cấp chủ nô, nhà nước diều hành mọi công việc .
Nhà nước trong khi phục vụ một giai cấp, đồng thời cũng bắt buộc phải phục vụ toàn xã hội, nếu không nó không thể tồn tại. Cho nên, ngoài tính chất giai cấp, nhà nước còn mang tính chất xã hội.
Xã hội có giai cấp, có nhà nước đầu tiên là xã hội chiếm hữu nô lệ thay thế cho xã hội nguyên thủy, nhung rồi nhà nước này cũng sẽ là dĩ vãng và được thay thế bằng nhà nước cao hơn.
II. Xã hội chiếm hữu nô lệ phương Đông.
Điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế.
Phương Đông bao gồm châu Á và châu phi, có điều kiện tự nhiên đa dạng và phong phú. Nổi bật nhất, các nước phương Đông đều có các con sông lớn như: Sông Nin Ai Cập dài 6.688km, tạo nên vùng đồng bằng Ai Cập. “Ai Cập là quà tặng của Sông Nin”. Lưỡng Hà là vùng đất do hai con sông Tigrơ và ơphrát tạo nên. Hằng Hà con sông lớn mà phù sa lâu đời của nó tạo thành đồng bằng bắc Hoa Bắc, sông Trường Giang (Dương Tử) dài 5.000km tạo nên vùng đồng bằng Hoa Trung của Trung Quốc. Rõ ràng những đồng bằng rộng lớn của các quốc gia phương Đông rất thuận lợi cho một nền kinh tế nông nghiệp trồng trọt nói chung và đặc biệt là trồng lúa nước. Điều kiện tự nhiên đã quyết định kinh tế của các quốc gia phương Đông chủ yếu là nền nông nghiệp. Bên cạnh nông nghiệp, nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng phát triển ở các gia đình nông thôn. Tóm lại, kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu của các quốc gia phương Đông cổ đại.
Quan hệ xã hội: Phương Đông bước vào xã hội có chế độ tư hữu, giai cấp tương đối sớm. Khoảng 3000 năm trước công nguyên, các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc đều lần lượt bước vào xã hội có giai cấp hay là thời kỳ quá độ sang xã hội đó.
Trong xã hội cổ đại các nước phương Đông còn có giai cấp nông dân. Các gia đình nông dân có một số ít ruộng đất, sống cố kết trong các công xã nông thôn. Họ là giai cấp đước quyền làm người nhưng là đối tượng bóc lột chính cuẩ nhà nước chủ nô.
Nô lệ là giai cấp bị âp bức bóc lột nặng nề nhất trong xã hội. Nô lệ phải lao động khổ sai không có giờ giấc, không được hưởng một chút nào gias trị của cải mà họ làm ra. Đó là những điểm chung của xã hội nô lệ toàn thế giới, phương Đông cũng như phương Tây.
Song, đặc điểm của xã hội nô lệ phương Đông là xã hội nô lệ không điển hình. Các Mác gọi đó là chế độ nô lệ gia trưởng (gia đình). Nô lệ phương Đông không phải là lực lượng chính sản xuất ra của cải vật chất. Phần lớn nô lệ được sử dụng vào hầu hạ các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý. Bởi vì ở các quốc gia nông nghiệp, nhà nước bóc lột nông dân là chính, bằng chế độ thuế khóa, lao dịch.
Ngoài sự phân hóa xã hội thành giai cấp, các quốc gia cổ đại phương Đông còn chia dân cư ra thành những đẳng cấp: Giai cấp thống trị là đẳng cấp quý tộc cao quý, giai cấp nông dân nghèo và các tầng lớp thị dân, thợ thủ công thuộc những đẳng cấp thấp hèn. Đậm nét nhất về việc phân chia xã hội thành các đẳng cấp là ở Ấn Độ. Theo đó đẳng cấp thứ nhất, cao quý nhất là đẳng cấp Bàlamôn, đẳng cấp này được tiếp xúc với thần thánh, phụ trách về tôn giáo, giảng kinh, giảng đạo. Đẳng cấp này cao quý nhất là vì sinh ra từ cái mồm của thần Brama. Đẳng cấp cao quý thứ hai là đẳng cấp Ksatơria. Đẳng cấp này cao quí thứ hai vì sinh ra từ cánh tay của thần Brama, có nhiệm vụ bảo vệ chế độ. Đẳng cấp thứ ba: Vaisia và cuối cùng là đẳng cấp bị khinh rẻ, thấp hèn nhất của xã hội, Lưỡng Hà và Trung Quốc đều coi giai cấp thống trị là đẳng cấp trên còn giai cấp bị trị là đẳng cấp dưới.
Sơ lược lịch sử và chính trị:
Ai Cập: khoảng 3000 tCN, Ai Cập đã bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước. Thời kỳ đầu tiên của nhà nước Ai Cập: Tảo Vương Quốc và cổ Vương quốc. Đây là giai đoạn dài hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ Ai Cập, kéo dài từ thế kỷ XX trước công nguyên . Hết thời kỳ cổ Vương quốc. Ai Cập bước sang thời kỳ trung vương quốc kéo dài từ thế kỷ XX đến thế kỷ XVI trước công nguyên, từ đời vua (Pharaông) thứ 9 đến đời vua thứ 17. Đây là thời kỳ vững mạnh của nhà nước Ai Cập. Kết thúc thời kỳ Trung Vương quốc thì chuyển sang thời kỳ Tân vương quốc, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XII trước công nguyên trải qua 30 triều vua, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của chế độ chiếm hữu nô lệ Ai Cập. Năm 225 trước công nguyên Ai Cập bị đế quốc Ba Tư xâm lược, chế độ chiếm hữu nô lệ độc lập của Ai Cập kết thúc.
Giai cấp chủ nô Ai Cập đã thiết lập hình thức nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền. Vua Ai Cập có quyền lực to lớn: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, quyền chỉ huy quân đội, quyền sở hữu ruộng đất tối cao trong toàn quốc.
Nhà vua còn là một chủ nô lớn nhất chiếm đoạt nhiều ruộng đất nhất. Các vương triều Ai Cập đã xây dựng được những lự lượng quân đội hùng mạnh để phục vụ cho việc trấn áp dân nghèo, nô lệ và bên ngoài thì mở rộng chiến tranh xâm lược.
Lưỡng Hà: Nhà nước Lưỡng Hà ra đời khoảng 3000 tCN, với việc tồn tại nhiều quốc gia nhỏ như: Ua, Êriđu, Lagat của người Xume. Khoảng đầu thế kỷ XXIII trước công nguyên, miền Nam Lưỡng Hà được thống nhất. Cuối thế kỷ XXIII trước công nguyên dưới triều đại Naramxin, toàn bộ Lưỡng Hà được thống nhất bao gồm cả Xiri, I Ran, Irắc và các quốc gia bờ nam Địa Trung Hải. Thời Naramaxin là thời kỳ cực thịnh của quốc gia chiếm hữu nô lệ Lưỡng Hà.
Khoảng năm 1894 tCN, Lưỡng Hà bị quốc gia Babilon đang lớn mạnh ở phía bắc tràn xuống xâm lược. Lịch sử Lưỡng Hà từ đó gắn với lịch sử Babilon và cực thịnh dưới triều đại Hămmurabi. Năm 792 trước công nguyên Babilon bị dietj vong. Năm 605 trước công nguyên Babilon lại hồi phục dưới cái tên Tân Babilon. Năm 539 tCN, vương quốc Tân Babilon bị đế quốc Ba Tư xâm lược.
Nhà nước Lưỡng Hà chia đất nước thành khu vực để cai trị: Khu vực một bao gồm Áccát, Bắc Sume. Triều đình trực tiếp cử tổng đốc tới cai trị các vùng.
Ấn Độ: Khoảng 2000 tCN, công xã nguyên thủy tan rã, Ấn Độ bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước với sự tồn tại của nhiều quốc gia, trong đó có vương quốc Magađa đóng vai trò chủ đạo ở miền Bắc.
Ấn vào thời kỳ thế kỷ VI trước công nguyên. Năm 327 trước công nguyên vua Maxêđônia là Alếchxanđrơ đã tràn vào xâm lược Ấn Độ. Trong cuộc chiến chống Alếchxanđrơ, Chanđra Gúpta đã nổi dậy và là người sáng lập vương triều Môria, một vương triều hưng thịnh ở Ấn Độ từ năm 321 đến 187 trước công nguyên. Vương triều Asôca đã thống nhất Ấn Độ suốt từ Nam đến Bắc.
Từ thế kỷ I trước công nguyên đến thế kỷ III sau công nguyên Ấn Độ rơi vào tình trạng phân cát. Phải đến thế kỷ IV Ấn Độ thống nhất dưới một vương triều mới: vương triều Gúpta. Chế độ nô lệ kết thúc, Ấn Độ bước sang chế độ phong kiến.
Dưới chế độ nô lệ, Ấn Độ cũng thiết lập nền quân chủ chuyên chế tập quyền như các nước phương Đông khác. Nhà vua nắm toàn bộ quyền lực. Giúp việc cho vua ở trung ương có các đại thần hợp thành Ngự tiền văn phòng là cơ quan tư vấn cho vua.
Đơn vị hành chính của Ấn Độ lớn nhất là một nghìn làng, dưới một nghìn làng là một trăm làng, dưới nữa là hai mươi làng…Quan cai quản từ một nghìn làng do trung ương bổ nhiệm. Hệ thống quan chức Ấn Độ dược nhà nước trả lương, bổng. Quan cao cấp lương gấp sáu lần quan trung cấp, Ấn Độ tiến hành đàn áp nhân dân và tiến hành chiến tranh thôn tính lẫn nhau.
Trung Quốc: Khoảng ba trăm nghìn năm trước công nguyên, công xã nguyên thủy tan rã, trung Quốc bước vào thời kỳ dân chủ quân sự, thời kỳ quá độ từ xã hội nguyên thủy chuyển sang xã hội có giai cấp với các thủ lĩnh liên minh bộ lạc được các thành viên cộng đồng bầu cử một cách dân chủ như Nghiêu, Thuẫn, Vũ.
Năm 2140 tCN, vương triều Hạ, nhà nước đầu tiên của Trung Quốc ra đời. Người sang lập ra nhà Hạ là ông Khải, con ông Vũ, người không cần được cộng đồng bầu củ vẫn lên kế vị mở đầu cho thời kì cha truyền con nối. Vua cuối cùng của triều Hạ là Kiệt, Kiệt hoang dâm, tàn bạo đưa vương triều tới chỗ diệt vong.
Năm 1711 trước công nguyên nhà Thương thay thế nhà Hạ. Nhà Thương do ông Thành Thang sáng lập, còn được gọi là nhà Ân vì năm 1324 trước công nguyên Nhà Thương dời kinh đô về đất Ân Khư thuộc đồng bằng sông Hoàng Hà, kinh đô mới được gọi là Triều Ca. Vua cuối cùng của nhà Ân hoang dâm tàn bạo khét tiếng, say mê Đát Kỷ nhà Ân bị nhà Chu xâm lược.
Nhà Chu: Năm 1066 TCN các bộ tộc Chu ở khu vực Thiểm Tây do Cơ Phát (Chu Võ Vương) lãnh đạo lật đổ nhà Ân, sáng lập triều Chu.
Nhà Chu có hai thời kỳ: Tây Chu, kinh đô ở Hạo Kinh, từ năm 1066 TCN đến 770 TCN. Vua cuối cùng của Tây Chu là U Vương say mê nàng Bao Tự, đùa giỡn phép nước để chiều ý người đẹp dẫn tới nhà Tây Chu sụp đổ.
Từ năm 771 TCN đến năm 221 TCN là thời kỳ Đông Chu. Nhà Chu sau khi khôi phục ngôi vua đã rời đô về Lạc Dương, phía Đông của Hạo Kinh. Đông Chu có hai thời: Xuân Thu và Chiến Quốc. Xuân Thu từ năm 771 TCN đến năm 475 tCN: thời kỳ chính quyền trung ương hoàn toàn suy yếu.
Thời kỳ chiến quốc: Từ năm 475 TCN đến năm 221 TCN, trải qua hàng trăm năm chiến tranh thôn tính lẫn nhau, các nước nhỏ bị các nước lớn tiêu diệt, sang thời chiến quốc chỉ còn lại bảy nước chiến tranh với nhau để giành quyền bá chủ Trung Quốc. Đó là các nước Sở, Yên,Tề, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần. Năm 256 TCN nhà Chu chính thức diệt vong. Năm 221 TCN Tần Thủy Hoàng đánh tan sáu nước, thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tần. Với nhà Tần chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc, Trung Quốc bước sang xã hội phong kiến.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ Trung Quốc kiến lập thiết chế quân chủ chuyên chế tập quyền. Vua xưng là Thiên tử (con trời), theo mệnh trời để cai trị nhân dân. Vua nắm mọi quyền lực của nhà nước, mọi quyền lực đều tập trung vào tay vua. Đến nhà Thương, đặc biệt là nhà Chu, bộ máy nhà nước phức tạp. Nhà Chu lấy huyết thống làm cơ sở cho việc tổ chức bộ máy cai trị, địa vị xã hội, quyền lực quốc gia. Quan hệ huyết thống quyết định vị trí cao thấp trong bộ máy nhà nước, trong xã hội.
Các thời đại Trung Quốc đều chia quốc gia thành các đơn vị hành chính để cai trị. Nhà Chu trên cơ sở chế độ Tông pháp phân phong cho than thích, họ hàng những vùng đất rộng lớn lập thành những nước chư hầu. Trên toàn quốc, nước chư hầu là đơn vị hành chính lớn nhất, nhưng ở bình diện địa phương, các chư hầu cũng lập những triều đình riêng mô phỏng theo bộ máy trung ương, người đứng đầu nước chư hầu là vua con, xưng là vương hoặc công.
Các quốc gia chiếm hữu nô lệ Phương Đông từ đầu đã xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền, dù chi tiết có khác nhau, nhưng chúng chỉ là một hình thức nhà nước của kiểu nhà nước nô lệ. Các quốc gia phương Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi vua các nước này nắm được quyền cở hữu ruộng đất, tối cao trong toàn quốc, khắp dưới gầm trời không đâu không phải thần dân của nhà vua. Do nắm được tư liệu sản xuất là ruộng đất của nhà vua.
Các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông với bộ máy bạo lực to lớn, với việc thần thánh hóa nhà vua và chế độ đã phục vụ đắc lực cho giai cấp chủ nô, bảo vệ tài sản cho giai cấp thống trị, đàn áp những cuộc chiến tranh, khởi nghĩa của dân nghèo và nô lệ, giữ vững địa vị thống trị của chủ nô.
Nhưng trong khi phục vụ cho giai cấp của mình, nhà nước chiếm hữu nô lệ các nước phương Đông đã làm nòng cốt cho nhân dân nhiều thế hệ sáng tạo, xây dựng phát triển văn hóa. Vì thế, các quốc gia phương Đông cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu huy hoàng về văn hóa, đã trở thành những trung tâm của nền văn minh thế giới cổ đại.
Văn hóa phương Đông:
Chữ viết: Thời kỳ xã hội nguyên thủy chưa có chữ viết. Khi mà nhà nước ra đời nhu cầu giao tiếp mở rộng đòi hỏi phải có chữ viết. Bản than nhà nước cũng cần có chữ viết để ban hành các văn bản, pháp luật, công văn, giấy tờ trong công việc hành chính. Chữ viết của các nước phương Đông ra đời sớm, có thể cùng đồng thời ra đời với sự ra đời của nhà nước. Các nhà Ai Cập học lại cho rằng chữ viết Ai Cập có từ 4000 năm TCN. Đó là loài chữ tượng hình viết trên đá, trên xương, trên lá cây, trên các lăng mộ. Người ta đã tìm được 700 kí hiệu và 24 dấu hiệu phụ âm của chữ cổ Ai Cập. Ba nghìn năm TCN chữ tiết hình ra đời ở Lưỡng Hà. Chữ cổ của Ấn Độ là chữ Phạn và chữ Pali. ở Trung Quốc thời Hạ, Thương và Chu đã có chữ viết tượng hình giáp cốt, chữ kim văn, chữ triện là nền tảng của chữ Hán về sau này.
Văn học nghệ thuật: sự ra đời của chữ viết gắn liền với sự ra đời của thành tựu văn học, nghệ thuật, nhu thể loại truyện kể bằng văn xuôi ở Ai Cập, Lưỡng Hà, sử thi đồ sộ của Ấn Độ: Mahabharata dài khoảng 220.000 câu kể lại cuộc chiến tranh tàn khốc tranh giành quyền lực trong dòng họ Bharata. Sử thi Mahabharata còn đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống cổ xưa, được coi là bộ Bách khoa của Ấn Độ. Sử thi Râmyana dài khoảng 48000 câu là bộ sử thi đồ sộ thứ hai của Ấn Độ kể về tình yêu trắc trở của chàng Hoàng tử Rama với nàng công chúa Sita.
Thơ ca phương Đông ra đời sớm và phong phú vè thể loại. các bộ suer thi thực ra cũng là những tập thơ đồ sộ. Đáng chú ý thời kỳ này có thơ ca của Ai Cập. Bộ Kinh Thi của Trung Quốc tổng hợp thơ từ thời Tây Chu đến thời Xuân Thu. Phương Đông cũng đã để lại bề dày về những giá trị văn hóa vật chất; các công trình kiến trúc đền đài, lăng miếu, chùa, tháp. Những công trình tuyệt mỹ như vườn treo Babilon, những công trình khổng lồ như Kim Tự Tháp Ai Cập, Vạn lý trường thành Trung Quốc, những thành phố nguy nga diễm lệ. Tất cả nói lên tài năng sang tạo tuyệt vời của nhân dân các nước phương Đông cổ đại. Một số công trình như kim tự tháp cho đến nay vẫn còn một ẩn số về phương pháp xây dựng.
Tóm lại phương Đông cổ đại có nền văn hóa rực rỡ phong phú về giá trị văn hóa tinh thần, vật chất. Các giá trị văn hóa này phát triển cao và tỏa ánh sáng ảnh hưởng đến các khu vực chung quanh. Nghĩa là văn hóa cổ đại phương Đông đã đạt đến trình độ văn minh và vì thế các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc là những trung tâm của nền văn minh thế giới cổ đại.
III. Xã hội chiếm hữu nô lệ Phương Tây ( Hy Lạp – La Mã )
Điều kiện địa lý, kinh tế Hy Lạp và La Mã. Hy Lạp và La Mã nằm trên bán đảo Bancăng ở nam châu Âu, vươn mình ra Địa Trung Hải, lãnh thổ của quốc gia chiếm hữu nô lệ Hy Lạp bao gồm các vùng lục địa, các đảo thuộc biển Êgiê và vùng Tây Tiểu Á. Hy Lạp có những đồng bằng màu mỡ thuận lợi cho sự phát triển các nền kinh tế như thủ công nghiệp, thương nghiệp phát triển, sản xuất và xuất khẩu đồ gốm…
Điều kiện kinh tế nhiều thành phần công, nông, thương nghiệp của Hy Lạp, La Mã sẽ ảnh hưởng to lớn đến sự phân hóa xã hội, đến thiết chế chính trị và đặc điểm của chế độ nô lệ các nước phương Tây.
Quan hệ xã hội Hy Lạp và La Mã: Vào cuối thế kỷ VIII tCN, công xã nguyên thủy tan rã, Hy Lạp bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước. La Mã thì muộn hơn Hy Lạp 200 năm, bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước thế kỷ thứ VI tCN. Chủ nô và giai cấp thống trị áp bức bóc lột. Vì Hy Lạp và La Mã có nhiều thành phần kinh tế: Giai cấp nô lệ ở Hy Lạp và La Mã chiếm đông đảo trong xã hội. Họ bị chủ nô áp bức, bóc lột rất tàn khốc. Họ mang đặc tính chung của nô lệ thế giới: không được quyền làm người, giống như nô lệ các nước phương Đông, nô lệ Hy Lạp La Mã cũng chỉ được coi là tài sản biết nói. Họ bị chủ đối xử tàn tệ, dã man; Ở các đấu trường La Mã, bọn chủ nô đã buộc các nô lệ đấu với nhau hoặc đấu với thú cho đến chết để chủ nô tiêu khiển.
Đặc điểm riêng của nô lệ Hy Lạp – La Mã được Các Mác coi là chế độ nô lệ điển hình. Ở đấy nô lệ là lực lượng sản xuất chính trong việc sản xuất ra c