Đề tài Sự phát triển của kế toán trên thế giới và Việt Nam. Các vấn đề đặt ra đối với kế toán Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Trong một quy ước Hammurabi ban bố trong triều đại đầu tiên của Babylonia (2285 2242 B.C.) có quy định rằng việc bán hàng phải được ghi nhận bằng một bản thảo có dấu. Do vậy các giao dịch đều được các bên ghi chép lại. Ở Mesopotamian có một nghề tương đương với nghề kế toán hiện này là ghi chép bản thảo. Công việc của họ cũng tương tự như một kế toán viên là phải ghi chép lại các giao dịch, và hơn nữa họ còn phải đảm bảo rằng các thoả ước giao dịch phù hợp với yêu cầu về giao dịch thương mại. Đã có hàng trăm người được thuê làm công việc này, và đây được coi là một nghề nghiệp có uy thế. Khi một giao dịch được thực hiện, các bên tham gia giao dịch đi thuê người chép bản thảo, mô tả thỏa thuận của họ với người đó, và sau đó nhận lấy bản chép ghi trên đất sét vì đất sét có rất nhiều trong vùng này. Kế toán trong thời Ai cập cổ đại cũng phát triển tương tự như tại thung lũng Mesopotamia. Tuy nhiên họ sử dụng giấy cói thay cho đất sét và điều này giúp cho việc ghi chép bản thảo đựơc thực hiện dễ dàng hơn. Hiện nay còn lưu giữ được nhiều bản thảo khổ lớn, dùng riêng cho các kho hàng hoàng cung. Tuy vậy, kế toán Ai cập cổ xưa chỉ dừng lại ở việc ghi chép đơn giản qua hàng nghìn năm tồn tại. Nguyên nhân chính là do tình trạng mù chữ và sự vắng mặt của đồng tiền đúc đã ngăn cản sự phát triển của nó. Người Hy Lạp đã có đóng góp quan trọng đối với ngành kế toán qua việc sử dụng đồng tiền đúc vào khoảng 600 năm trước công nguyên. Việc đưa đồng tiền đúc vào tiêu dùng đã khởi nguồn cho một cuộc cách mạng của ngành kế toán. Ngành nghề ngân hàng trong xã hội Hy Lạp cổ xưa rất phát triển so với các xã hội trước đó. Các chủ ngân hàng giữ những sổ tài khoản, trao đổi hoặc cho vay, thậm chí thu xếp chuyển tiền mặt thông qua những ngân hàng cộng sự tại các thành phố khác nhau. Ở xã hội Rome cổ đại có một tục lệ là những người chủ gia đình ghi chép lại các khoản thu chi thường nhật của gia đình vào quyển sổ nhật ký. Việc quản lýy chi tiêu gia đình như vậy rất quan trọng vì ở Rome người dân phải định kỳ tường trình về tài sản và công nợ, để theo đó Nhà nước tính thuế và thậm chí xác định quyền công dân. Người La mã đã xây dựng dự toán ngân sách hàng năm, với nỗ lực tổng hợp hoạt động của các công ty tài chính, hạn chế chi tiêu nhằm đạt được khoản ngân sách dự tính và đánh thuế người dân.