Đề tài Tác động của thuế giá trị gia tăng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam

Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam từ năm 1999 thay cho thuế doanh thu là một loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp hành thu. Việc ban hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt nam. Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để cạnh tranh thuận lợi ở trong và ngoài nước. Điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu. Từ lâu sự chồng chéo này của thuế doanh thu đã gây nhiều kêu ca, phàn nàn của hầu hết cơ sở kinh doanh và người tiêu dùng vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến giá cả hàng hoá. Thuế doanh thu tính trên toàn bộ giá bán qua từng khâu có nghĩa là trong trường hợp mua cao, bán hạ, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế doanh thu. Ngược lại thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm mà doanh nghiệp tạo ra, thậm chí doanh nghiệp còn được hoàn thuế đầu vào cao hơn thuế đầu ra. Hơn nữa thuế GTGT còn có tác dụng góp phần thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất, chống thất thu có hiệu quả, bảo đảm nguồn thu cho NSNN. Sau hơn 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến nhưng còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Hơn lúc nào hết, nghiên cứu kinh nghiệm thế giới, phân tích thực tế ở Việt Nam để nhanh chóng phát hiện những vấn đề nảy sinh, tìm ra được những giải pháp thích hợp là điều kiện cực kỳ quan trọng đảm bảo sự thành công toàn diện và vững chắc của việc triển khai thuế GTGT ở Việt Nam. Qua một thời gian nghiên cứu, kết hợp với những hiểu biết của bản thân em chọn đề tài “Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam” để nghiên cứu. Đề tài bao gồm 3 chương: Chương I: Thuế và thuế GTGT đối với hoạt động của các doanh nghiệp Chương II: Tác động của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

doc76 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của thuế giá trị gia tăng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam từ năm 1999 thay cho thuế doanh thu là một loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp hành thu. Việc ban hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt nam. Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để cạnh tranh thuận lợi ở trong và ngoài nước. Điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu. Từ lâu sự chồng chéo này của thuế doanh thu đã gây nhiều kêu ca, phàn nàn của hầu hết cơ sở kinh doanh và người tiêu dùng vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến giá cả hàng hoá. Thuế doanh thu tính trên toàn bộ giá bán qua từng khâu có nghĩa là trong trường hợp mua cao, bán hạ, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế doanh thu. Ngược lại thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm mà doanh nghiệp tạo ra, thậm chí doanh nghiệp còn được hoàn thuế đầu vào cao hơn thuế đầu ra. Hơn nữa thuế GTGT còn có tác dụng góp phần thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất, chống thất thu có hiệu quả, bảo đảm nguồn thu cho NSNN. Sau hơn 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến nhưng còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Hơn lúc nào hết, nghiên cứu kinh nghiệm thế giới, phân tích thực tế ở Việt Nam để nhanh chóng phát hiện những vấn đề nảy sinh, tìm ra được những giải pháp thích hợp là điều kiện cực kỳ quan trọng đảm bảo sự thành công toàn diện và vững chắc của việc triển khai thuế GTGT ở Việt Nam. Qua một thời gian nghiên cứu, kết hợp với những hiểu biết của bản thân em chọn đề tài “Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam” để nghiên cứu. Đề tài bao gồm 3 chương: Chương I: Thuế và thuế GTGT đối với hoạt động của các doanh nghiệp Chương II: Tác động của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam CHƯƠNG i THUế Và THUế GTGT Đối với hoạt động của các doanh nghiệp i. KHáI QUáT Về THUế. 1. Sự ra đời của và bản chất của thuế. 1.1 Nguồn gốc xuất hiện của thuế. Nhà nước là bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Theo quan điểm của Ăng ghen, Nhà nước có hai đặc trưng chủ yếu : - Một là : phân chia dân cư theo khu vực để quản lý. - Hai là : thiết lập những quyền lực công cộng và để duy trì những quyền lực công cộng đó cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế. Trước xã hội nô lệ, khi điều kiện làm việc còn mông muội, năng suất lao động còn thấp, con người rất khó nhọc mới tìm ra tư liệu cần thiết cho đời sống, lúc đó xã hội chưa biết đến thuế, càng đến xã hội văn minh thuế càng phát triển. Như vậy khái niệm về thuế xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất hiện và phát triển của Nhà nước. Hai khái niệm Nhà nước và thuế đi với nhau rất mật thiết, gắn bó như hình và bóng - không thể thiếu được. Nhà nước sử dụng thuế để phục vụ cho mục đích của mình: Nhà nước giai cấp bóc lột thu thuế để phục vụ cuộc sống xa hoa, đài các của bọn thống trị áp bức, còn đối với Nhà nước nào thực sự của dân, do dân và vì dân, Nhà nước đó thu thuế của dân để trở lại phục vụ cuộc sống của người dân cho công bằng và hợp lý hơn, đảm bảo quyền sống của con người đầy đủ và tốt đẹp hơn . Lịch sử phát triển của thuế cũng đã chứng minh đó là quá trình phát triển ngày càng hoàn thiện và hợp lý trong thực hiện nhiệm vụ phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, nhờ đó để đi dần tới chỗ động viên thu nhập của người dân một cách công bằngvà ngày càng hợp lý hơn, từ đó yêu cầu các luật thuế phải được xây dựng hợp lý, đầy đủ và ngày càng hoàn thiện. Để cho chính sách thuế góp phần động viên công bằng hợp lý thu nhập quốc dân được tạo ra trong toàn xã hội và nhất là khi nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, giữa các cá nhân với nhau và với xã hội ngày càng mật thiết, chặt chẽ hơn thì sự phân phối thu nhập quốc dân trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách thuế mà ở đó có sự liên kết trong một tổng thể thống nhất cùng tham gia trong quá trình phân phối đó. 1.2 Bản chất của thuế . Có thể hiểu thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc được Nhà nước quy định thành luật để mọi người dân và các tổ chức kinh tế phải thực hiện nộp vào NSNN theo từng thời kỳ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Cũng có thể hiểu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và người dân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. 2. Vai trò của thuế. Trong nền kinh tế thị trường, thuế có các vai trò chủ yếu sau: 2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. ở nước ta trong thời kỳ bao cấp thuế thường mới chỉ đảm bảo được khoảng 50%- 60% tổng số thu của NSNN. Một phần thu quan trọng của NSNN lúc đó còn phải dựa vào viện trợ, vay nợ. Đến nay nguồn thu từ nước ngoài, nhất là các khoản viện trợ cho không đã giảm nhiều, quan hệ kinh tế đối ngoại đang chuyển sang cơ chế có vay, có trả, có đi, có lại hai bên cùng có lợi. Hệ thống thuế phải bảo đảm đến 80%- 90% tổng số thu của NSNN, có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ. 2.2 Thuế góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chính sách thuế được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành nghề, các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước. Tuỳ tình hình cụ thể, Nhà nước sử dụng công cụ thuế để góp phần điều tiết nền kinh tế, bao gồm cả sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, điều chỉnh các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng phát triển của Nhà nước, điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân (giữa tích luỹ và tiêu dùng, tiền và hàng, giữa cung và cầu, nhập và xuất). Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát, thúc đẩy hạch toán kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức lao động, tăng năng suất, hạ giá thành tăng hiệu quả kinh tế. 2.3 Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội. Vai trò điều hoà thu nhập của thuế thể hiện ở sự kết hợp hài hoà giữa việc động viên phù hợp với khả năng và tính chất của hoạt động sản xuất, kinh doanh với việc tăng cường hiệu lực của hệ thống thuế bằng các chế độ, biện pháp thuế. Yêu cầu bình đẳng về động viên đóng góp được thể hiện qua việc áp dụng chính sách thuế thống nhất giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư, sự cân bằng về thuế, trước hết phải xuất phát từ nhận thức đầy đủ và xác định đúng đắn quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế đối với Nhà nước, người đại diện cho quyền lực và lợi ích của toàn xã hội. II. thuế giá trị gia tăng. 1. Khái niệm. Theo điều 1 của luật thuế GTGT: “Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Trong đó giá trị tăng thêm là khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và khoản giá trị tăng thêm này do người tiêu dùng chịu. 2. Mục đích. Mục đích của thuế GTGT là nhằm khuyến khích chuyên môn hoá cao, khuyến khích các nhà doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tạo tích luỹ cao cho doanh nghiệp, tăng tỷ lệ huy động cho NSNN. Thuế GTGT góp phần khuyến khích mạnh mẽ sản xuất hàng hoá xuất khẩu vì mức thuế hàng xuất khẩu 0%, ngoài ra còn được thoái trả lại toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tạo điều kiện cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Thuế GTGT hàng nhập khẩu có tác dụng thiết thực bảo vệ sản xuất kinh doanh hàng nội địa, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá theo hướng xuất khẩu. 3. Nội dung của thuế GTGT. 3.1 Đối tượng áp dụng. 3.1.1 Phạm vi áp dụng. Xét về góc độ kinh tế, thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm phát sinh qua các khâu trong quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá, do đó mọi hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh nêu trên đều thuộc đối tượng nộp thuế. Như vậy phạm vi áp dụng của thuế GTGT có thể bao gồm : - Hoạt động kinh doanh nhập khẩu. - Hoạt động sản xuất mặt hàng thuộc diện đánh thuế TTĐB. - Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói chung bao gồm cả sản xuất nông nghiệp đang thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp. 1.1.2. Đối tượng nộp thuế . Tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm : - Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp, luật DNNN và luật hợp tác xã. - Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng kinh doanh khác. 3.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế 3.2.1. Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. * Giá tính thuế : Theo quy định tại điều 7 luật thuế GTGT và điều 6 của Nghị định số 79/2000/NĐ-CP, giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ được xác định như sau: - Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. - Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu, giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với (+) thuế nhập khẩu xác định theo mức thuế phải nộp sau khi đã được miễn giảm. - Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để tiêu dùng không phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì phải tính thuế GTGT đầu ra. Giá tính thuế tính theo giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại. - Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt nam, giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ phải thanh toán cho phía nước ngoài. Dịch vụ cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà, xưởng, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị. Giá để tính thuế GTGT là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo hình thức thu tiền từng kỳ hoặc thu trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế GTGT tính trên số tiền thu từng kỳ hoặc thu trước, bao gồm cả các khoản thu dưới hình thức khác như thu tiền để hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu của bên thuê. - Đối với các hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định. * Thuế suất: Luật thuế GTGT hiện nay quy định 4 mức thuế suất : 0%, 5%, 10%, 20% trong đó : - Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu. - Thuế suất 5%, 10%, 20% đối với hàng hoá, dịch vụ. 3.2.2. Phương pháp tính Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT. Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT. Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp sau : Phương pháp khấu trừ thuế * Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT. Xác định số thuế GTGT phải nộp Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào Trong đó: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn chứng từ. Doanh thu chưa có thuế = Giá bán - Thuế tính trên giá bán Ví dụ : Doanh nghiệp bán sắt, thép Giá bán chưa có thuế GTGT đối với sắt f6 là 4.600.000 đ/tấn Thuế GTGT 5% 230.000 đ/tấn Khi bán, có một số hoá đơn doanh nghiệp chỉ ghi giá bán 4.800.000 đ/tấn Thuế GTGT tính trên doanh số bán được xác định: 4.800.000 đ/tấn x 5% = 240.000 đ/tấn Doanh thu được xác định lại bằng: 4.660.000 đ (= 4.800.000đ - 240.000đ) Doanh nghiệp mua thép cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hoá đơn mua không ghi thuế GTGT này. Thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, được khấu trừ thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh kể từ tháng được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào tháng trước được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT ã Đối tượng áp dụng - Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt nam. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. - Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Xác định thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó GTGT của hàng hoá, dịch vụ = Doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ bán ra Giá trị gia tăng xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau: - Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật tư, hàng hoá, dịchvụ mua vào tương ứng với doanh số hàng bán ra thì được xác định như sau: Giá vốn hàng bán ra = Doanh số tồn đầu kỳ + Doanh số mua trong kỳ - Doanh số tồn cuối kỳ Ví dụ : Một cơ sở A sản xuất đồ gỗ, trong tháng bán được 150 sản phẩm tổng doanh số bán là 25 triệu đồng. Giá trị vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng, trong đó : Nguyên liệu chính (gỗ) 14 triệu Vật liệu và dịch vụ mua ngoài khác 5 triệu Thuế suất thuế GTGT là 10% , thuế GTGT cơ sở A phải nộp được tính như sau: GTGT của sản phẩm bán ra 25 triệu đồng – 19 triệu đồng = 6 triệu đ Thuế GTGT phải nộp 6 triệu đồng x 10% = 0,6 triệu đồng - Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình. - Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải. - Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, GTGT là số chênh lệch giữa doanh số bán ra, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ (-) giá vốn của vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ bán ra. 3.3. Các quy định khác Hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ. Từ hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn phù hợp với từng phương pháp tính thuế và phù hợp với trình độ quản lý, kế toán của đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT được khấu trừ, đối tượng nộp thuế theo phương pháp tính thuế GTGT được sử dụng hoá đơn thông thường. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định trên hoá đơn và ghi rõ: Giá bán chưa có thuế, phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã có thuế. Nếu cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ không ghi tách riêng số bán và thuế GTGT, chỉ ghi chung giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá thanh toán. Cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT (trừ trường hợp hàng hóa, dịch vụ đặc thù được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT). Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng và các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, sử dụng hoá đơn thông thường. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực thanh toán đã có thuế GTGT (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT). Cơ sở kinh doanh muốn sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với quy định chung, phải đăng ký với Bộ Tài Chính (Tổng cục thuế) và chỉ được sử dụng khi đã được thông báo bằng văn bản cho sử dụng. Mọi trường hợp doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn theo mẫu quy định. Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định về chế độ hoá đơn, chứng từ do Bộ Tài Chính ban hành. Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. Mã số thuế Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đối tượng nộp thuế, thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 75/1998/QĐ-Ttg ngày 4/4/1998 quy định về mã số đối tượng nộp thuế. Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế là đối tượng nộp thuế theo pháp luật Việt Nam đều phải thực hiện kê khai, đăng ký thuế với cơ quan thuế để cấp mã số xác định đối tượng được nộp thuế (gọi tắt là mã số thuế). Mã số thuế được sử dụng để nhận diện đối tượng nộp thuế. Mỗi một đối tượng nộp thuế chỉ được cấp một mã số thuế duy nhất trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động. Mã số thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng lại để cấp cho đối tượng nộp thuế khác. Các đối tượng nộp thuế phải ghi mã số của mình trên mọi giấy tờ giao dịch, chứng từ hoá đơn mua, bán, trao đổi kinh doanh, trên các sổ sách kế toán, trên các giấy tờ kê khai thuế, chứng từ nộp thuế và các biểu mẫu kê khai với các cơ quan quản lý Nhà nước theo quy định của pháp luật. Các đơn vị được sử dụng hoá đơn tự in phải in sẵn mã số thuế của mình ở góc trên bên phải của từng tờ hoá đơn. Hoàn thuế GTGT Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau: - Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở nên có luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số
Tài liệu liên quan