Trong bối cảnh thời đại công nghệ thông tin phát triển nhanh đến chóng mặt, Internet đã có ở Việt Nam và tạo nên nhiều thay đổi lớn trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Số người dùng Internet ở nước ta cứ sau 10 tháng lại tăng 1,5 lần: tháng 5.2004: 4,7 triệu; tháng 5.2005: 7,2 triệu (Theo tạp chí “Tin học và đời sống” 7.2004). Riêng đối với lớp trẻ, đặc biệt là học sinh phổ thông, việc sử dụng Internet càng phổ biến. Bên cạnh những tiện ích, những tác động tích cực không thể phủ nhận, việc truy cập Internet còn có những tác động tiêu cực đến nhận thức và hành vi của nhiều thanh thiếu niên, trở thành mối lo của các bậc phụ huynh, đặt ra nhiều vấn đề hóc búa đối với các nhà quản lí.
Hiện nay, vẫn chưa có biện pháp, chế tài thực sự có hiệu quả trong việc quản lí dịch vụ Internet cũng như hoạt động hết sức tự do của các trang web (cả web lành mạnh lẫn độc hại).
Sự phát triển của khoa học kĩ thuật tất yếu phải kéo theo nó những vấn đề xã hội nhiều mặt và Internet càng không nằm ngoài qui luật đó. Dư luận xã hội cũng như các phương tiện thông tin đại chúng đã có rất nhiều phản ảnh về vấn đề bức xúc này. Nhưng những nghiên cứu khoa học, nhất là trong Xã hội học thì đây vẫn đang là vấn đề mới mẻ, cần được nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện hơn.
Đó là những lí do khiến tôi mong muốn áp dụng các lý thuyết và phương pháp xã hội học vào nghiên cứu tác động của việc sử dụng Internet tới học sinh phổ thông, nhằm góp phần tìm hiểu, nhận dạng và đề xuất biện pháp đến các nhà quản lí.
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 8022 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tác động của việc sử dụng Internet tới hoạt động học tập học sinh phổ thông ở thành phố (Khảo sát trên địa bàn phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác động của việc sử dụng Internet tới hoạt động học tập học sinh phổ thông ở thành phố (Khảo sát trên địa bàn phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội)
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh thời đại công nghệ thông tin phát triển nhanh đến chóng mặt, Internet đã có ở Việt Nam và tạo nên nhiều thay đổi lớn trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội...
Số người dùng Internet ở nước ta cứ sau 10 tháng lại tăng 1,5 lần: tháng 5.2004: 4,7 triệu; tháng 5.2005: 7,2 triệu (Theo tạp chí “Tin học và đời sống” 7.2004). Riêng đối với lớp trẻ, đặc biệt là học sinh phổ thông, việc sử dụng Internet càng phổ biến. Bên cạnh những tiện ích, những tác động tích cực không thể phủ nhận, việc truy cập Internet còn có những tác động tiêu cực đến nhận thức và hành vi của nhiều thanh thiếu niên, trở thành mối lo của các bậc phụ huynh, đặt ra nhiều vấn đề hóc búa đối với các nhà quản lí.
Hiện nay, vẫn chưa có biện pháp, chế tài thực sự có hiệu quả trong việc quản lí dịch vụ Internet cũng như hoạt động hết sức tự do của các trang web (cả web lành mạnh lẫn độc hại).
Sự phát triển của khoa học kĩ thuật tất yếu phải kéo theo nó những vấn đề xã hội nhiều mặt và Internet càng không nằm ngoài qui luật đó. Dư luận xã hội cũng như các phương tiện thông tin đại chúng đã có rất nhiều phản ảnh về vấn đề bức xúc này. Nhưng những nghiên cứu khoa học, nhất là trong Xã hội học thì đây vẫn đang là vấn đề mới mẻ, cần được nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện hơn.
Đó là những lí do khiến tôi mong muốn áp dụng các lý thuyết và phương pháp xã hội học vào nghiên cứu tác động của việc sử dụng Internet tới học sinh phổ thông, nhằm góp phần tìm hiểu, nhận dạng và đề xuất biện pháp đến các nhà quản lí.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mô tả việc truy cập mạng của học sinh phổ thông trung học (thời gian, mục đích, cách thức, nội dung, chi phí...)
- Chỉ ra những tác động tích cực, tiêu cực của việc truy cập mạng đến đời sống của học sinh trung học (việc học tập, sức khoẻ...)
- Tìm mối liên hệ giữa mức độ sử dụng Internet với tác động của nó, để từ đó có thể đề xuất khuyến nghị hợp lí.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi, mẫu nghiên cứu
- Đối tượng: Tác động (hai mặt) của việc sử dụng Internet tới học sinh phổ thông ở thành phố.
- Khách thể: Học sinh phổ thông ở thành phố Hà Nội, tập trung vào địa bàn phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Hà Nội với 2 trường: PTTH Nhân Chính và PTCS Phan Đình Giót.
- Phạm vi:
+ Không gian: địa bàn phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
+ Thời gian: 11- 2005.
- Mẫu:
Dung lượng: 230
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu:
Các thành phần của mẫu
Tỉ lệ(%)
Giới tính
Nam
51.7
Nữ
48.3
Tuổi
13
22.6
14
19.1
15
19.1
16
19.6
17
19.6
Trong cơ cấu mẫu có sự cân bằng tương đối về giới và các tuổi từ 13 đến 17 (tương ứng với những học sinh từ lớp 8 đến lớp 12- học sinh ở độ tuổi này sử dụng Internet nhiều hơn các lớp dưới, nên vấn đề nghiên cứu cũng được thể hiện rõ nét hơn).
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Truy cập Internet là hiện tượng phổ biến trong học sinh phổ thông trung học.
- Việc sử dụng Internet ảnh hưởng đến thời gian dành cho học tập và mức độ hứng thú học tập của học sinh.
5. Những khái niệm công cụ
* Học sinh phổ thông
Là những người đang theo học tiểu học, phổ thông cơ sở hoặc phổ thông trung học. Nhưng trong nghiên cứu này tập trung vào học sinh phổ thông ở lứa tuổi có nhiều em truy cập Internet- từ lớp 7 đến lớp 12.
* Internet
Internet (International Net Work) là mạng của các mạng, được tạo ra bằng việc kết nối các máy tính và các mạng máy tính với nhau trong một mạng chung rộng lớn mang tính toàn cầu.Tiền thân của Internet là Arpanet- mạng máy tính của cơ quan nghiên cứu cao cấp Bộ quốc phòng Mỹ quyết định xây dựng năm 1969. Internet lan rộng khắp các nước vào thập kỉ 90 và lần đầu tiên được truy cập ở Việt Nam vào năm 1997.
NỘI DUNG
1. Tổng quan vấn đề
Internet, cách ứng xử với Internet và tác động của nó tới đời sống mỗi người là chủ đề được quan tâm khá nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng và mới chỉ được bàn đến nhiều nhất là ở các bài báo, phóng sự.
Trên tạp chí “ Tin học và đời sống” thường xuyên có loạt bài viết của Lê Nguyễn Bảo Nguyên về việc sử dụng Internet và quản lý việc sử dụng Internet như thế nào cho hiệu quả. Các bài viết: “ Khai thác Internet ở giới trẻ- thực trạng và giải pháp khuyến nghị” (7/2004); “ Quản lý trẻ em truy cập Internet- phụ huynh chớ vội xem thường” (1/2004) đề cập đến những điều chưa hợp lý trong hành vi truy cập Internet của học sinh và đề xuất đối với các tổ chức, nhà trường, gia đình và chính giới trẻ để khắc phục.
Liên quan đến việc phổ cập Internet một cách có bài bản đến học sinh, nhiều bài báo phản ánh thực trạng sử dụng máy tính nối mạng ở các trường phổ thông: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường- đổi nhiều hơn mới” (Lê Nguyễn Bảo Nguyên- Tin học và đời sống - 11/2004); “Kết nối Internet đến 100% trường THPT: Nối mạng rồi bỏ đó” (Hải Hà- Tiên Phong ,10/20005). Các tác giả này đều nói đến một thực tế là các cơ sở được kết nối Internet vẫn đang gặp nhiều khó khăn, chưa biết ứng dụng công nghệ mới này ra sao. Mặc dù giáo viên và học sinh bước đầu tiếp cận với công nghệ mới, với thông tin trong và ngoài nước, góp phần tạo bước chuyển biến cơ bản phương pháp giảng dạy, học tập và quản lý giáo dục, nhưng việc kết nối đang phát huy rất ít hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu của học sinh về việc truy cập Internet trong trường.
Cũng trên tạp chí “Tin học và đời sống”, bài viết “Quản lý người dùng Internet: Đường đi nằm ngay dưới chân ta?!” (Lê Nguyến Bảo Nguyên -11/2004) đã đề xuất một lộ trình khả quan hơn trong việc quản lý người sử dụng Internet bằng những “điểm truy cập an toàn”, mô hình quản lý người dùng Intêrnet tại nhà, qua các tổ chức xã hội... chứ không phải chỉ tập trung tìm và huỷ những trang web độc hại. Những bài viết đó đem lại cho người đọc- những người quan tâm đến vấn đề này cách nhìn nhận, đánh giá sâu sắc, khách quan hơn.
Ở qui mô lớn, đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tổ chức thường xuyên tìm thông tin về cách sử dụng và tác động của Internet đến người dùng nhiều nhất chính là các cơ quan mạng, những webside có lượng truy cập lớn (như Yahoo, Vietnamnet...) bởi họ có điều kiện rất thuận lợi để thu thập thông tin qua các câu hỏi thăm dò ý kiến trực tuyến hoặc qua các diễn đàn (forum) trên mạng. Tuy vậy, kết quả thu được qua những thăm dò này thường chỉ về dư luận, thái độ và độ tin cậy chưa cao.
Trong nhiều cuộc nghiên cứu, Internet mới chỉ thường được đề cập đến như một trong những phương tiện để giải trí của người truy cập nói chung và học sinh phổ thông nói riêng. “ Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay: những vấn đề lý luận và thực tiễn” (Phạm Huy Đức- Cb, Viện Văn Hoá 2004) nhóm tác giả đề cập đến sự biến đổi trong hoạt động giải trí ở đô thị những năm gần đây, khi mà điều kiện kinh tế, xã hội phát triển nhanh chóng mặt. Hoạt động giải trí trong cuộc sống hiện đại ngày càng phong phú và cũng phức tạp hơn, nó không chỉ để giết thời gian khi rảnh rỗi mà còn trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống, nó có liên quan đến các yếu tố khách quan khác như điều kiện sống, học vấn, nghề nghiệp, thể chất, sở thích của mỗi người.
Thực chất tác dụng của Internet có thể rất to lớn, phục vụ được trong vô vàn lĩnh vực khác nhau chứ không phải chủ yếu chỉ để giải trí như nhiều người (nhất là học sinh) đang sử dụng. Cuốn “ Làm việc – mua bán và giải trí trên mạng” của Lê Quang Liêm đã đề cập đến những lĩnh vực ứng dụng chính của Internet ngày nay.
Internet và việc sử dụng, khai thác nó là đề tài còn khá mới mẻ trong các nghiên cứu xã hội học. Hiện nay vẫn chưa có được nhiều nghiên cứu qui mô lớn và đặc biệt chuyên sâu vào lứa tuổi học sinh phổ thông - lứa tuổi mà việc sử dụng Internet còn rất nhiều vấn đề cần xem xét và có hướng giải quyết.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Một số đặc điểm của những học sinh PT sử dụng Internet
Trong phần nội dung này báo cáo chỉ quan tâm đến những học sinh có sử dụng Internet (198 trong tổng số 230 học sinh được hỏi).
* Đặc điểm về tuổi:
Internet mới vào đến Việt Nam khoảng một thập kỉ, tốc độ phát triển của nó hết sức nhanh chóng. Khi chưa có nhiều người Việt Nam biết đến, Internet chủ yếu được truy cập bởi những người trưởng thành, làm việc trong lĩnh vực thông tin, nghiên cứu...Ngày nay, cùng với việc phổ cập tin học ở bậc phổ thông và giá dịch vụ ngày càng dễ chi trả, độ tuổi bắt đầu truy cập mạng khá trẻ.
Bảng 1: Độ tuổi truy cập Internet
Sd Internet
Tuổi
Từ 1 đến 6 tháng
Hơn 6 tháng- 1 năm
Hơn 1 năm
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
13
20
35.7
6
17.3
13
12
14
14
25
9
26.5
16
14.8
15
9
16.1
9
26.5
25
23.1
16
5
8.9
3
8.8
25
23.1
17
8
14.3
7
20.6
29
26.9
Tổng
56
100
34
100
108
100
Có một tỉ lệ lớn học sinh bắt đầu sử dụng Internet lần đầu tiên từ khoảng 13- 14 tuổi. Điều này có thể do các nguyên nhân:
Ở độ tuổi ít hơn (cấp I hoặc mới vào cấp II), gia đình thường quản lí rất chặt chẽ tất cả các hoạt động của các em, và nhiều phụ huynh không cho phép con em mình truy cập mạng Internet quá sớm vì sợ ảnh hưởng đến thời gian học tập và nhận thức, thái độ của các em. Có những bậc phụ huynh chưa bao giờ truy cập Internet và chỉ cho rằng vào mạng là tốn thời gian, vô ích, có hại nên hoàn toàn cấm con em mình. Bởi vậy, khi mọi hoạt động trong một ngày chỉ là đến trường, về nhà... và tất cả các khoản chi tiêu đều do bố mẹ quản lí cụ thể thì những học sinh nhỏ tuổi khó có thể tự ý thường xuyên vào mạng.
Thứ hai, những học sinh nhỏ tuổi hơn chưa được làm quen nhiều với máy vi tính, cũng như chưa quan tâm nhiều đến những thông tin rất phong phú trên Internet. Các trường tiểu học hầu như chưa giảng dạy Tin học cho học sinh. Những học sinh sử dụng Internet sớm nhất thường rơi vào các trường hợp có máy tính nối mạng ở nhà hoặc nhà ở rất gần quán net, và vào mạng chủ yếu chỉ để chơi game.
* Đặc điểm về giới tính:
Không có sự khác nhau đáng kể nào trong việc truy cập hay không truy cập Internet giữa hai giới. Có thể nói đây là một hoạt động phổ biến của cả hai giới. Điểm khác nhau là ở mức đô, mục đích và cách thức sử dụng.
*. Mức độ sử dụng:
Bảng2: Mức độ truy cập Internet
Số lần/ tuần
Nam
Nữ
Số lượng
%
Số lượng
%
< 2
65
61.3
55
59.8
Từ 2- 4
15
14.2
24
26.1
Hơn 4
26
24.5
13
14.1
Tổng
106
100
92
100
Đa phần học sinh phổ thông truy cập Internet khoảng 1 đến 2 lần 1 tuần, ở mức độ truy cập ít, không có sự chênh lệch đáng kể giữa học sinh nam và nữ. Ở mức truy cập thường xuyên nhất (hơn 4 lần 1 tuần), tỉ lệ nam nhiều hơn. Điều này liên quan đến sự khác nhau trong mục đích truy cập của hai giới. Nam sử dụng mạng để chơi game nhiều hơn nữ, đồng nghĩa với việc hiện tượng nghiền game online ở nam nhiều hơn.Trường hợp truy cập mạng nhiều lần nhất trong một tuần mà nghiên cứu hỏi được là 1 học sinh nam, đều đặn vào mạng 2 lần mỗi ngày để chơi game.
Bảng 3: Thời lượng truy cập Internet
Thời lượng /1 lần truy cập
Nam
Nữ
Số lượng
%
Số lượng
%
≤ 1 h
45
42.5
59
64.2
1- 2 h
44
41.5
29
31.5
> 2 h
17
17
4
4.3
Tổng
106
100
92
100
Thời lượng truy cập trung bình của học sinh phổ thông là 1,45 h/ lần
Nam thường sử dụng Internet trong thời gian lâu hơn nữ. Đến hơn một nửa trong số học sinh nữ truy cập mạng chỉ gần 1h mỗi lần. Càng ở mức độ truy cập lâu, tỉ lệ nữ càng ít hơn nam.
Như vậy, ở lứa tuổi học sinh phổ thông, mặc dù không có sự chênh lệch đáng kể giữa hai giới trong việc có sử dụng Internet, nhưng lại khác nhau rõ rệt ở cách thức khai thác nó. Nam sử dụng Internet nhiều hơn nữ, cả về tần suất và thời lượng. Đến lứa tuổi 13- 17, những sự khác biệt về giới đã biểu hiện rõ nét. Học sinh nữ thường được đánh giá là nghe lời thầy cô, cha mẹ hơn học sinh nam.
*Đặc điểm về điều kiện sống:
Thứ nhất, có máy tính nối mạng ở nhà là một yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt đến việc sử dụng Internet của học sinh. Trong số hơn 200 học sinh được hỏi, chỉ có khoảng 8,3 % em nhà có máy tính nối mạng. Tất cả trong số đó đều đã truy cập Internet và mức độ truy cập thường xuyên hơn hẳn những em mà nhà không có máy tính nối mạng và thời gian truy cập cũng khác.
Những học sinh mà nhà có máy tính được nối mạng vẫn thường xuyên truy cập mạng ở các quán dịch vụ nhưng đồng thời truy cập ở nhà, đặc biệt là vào buổi đêm khi cước phí rẻ hơn.37% học sinh mà nhà có máy tính nối mạng thường xuyên truy cập Internet vào ban đêm, trong khi con số này ở những em nhà không có máy tính nối mạng chỉ là 2%. Nhưng điều đáng quan tâm chính là những em thuộc 2% đó. Trong cả 4 học sinh này, có trường hợp hứng thú học tập bị giảm đi, và không có trường hợp nào trả lời rằng mình có chú ý với bài giảng trên lớp, trong khi có 67% học sinh được hỏi trả lời rằng mình có chú ý hoặc rất chú ý. Nếu có thể lang thang trên mạng Internet vào ban đêm ở các dịch vụ, chứng tỏ gia đình không có sự quản lý chặt chẽ,thờ ơ với những hoạt động của các em, hoặc gia đình không quản lý được.Ở những gia đình có nề nếp, đó phải là giờ để ngủ, nghỉ ngơi hoặc học tập chứ không phải để ngồi quán net. Bản thân việc truy cập Internet hay thậm chí chat đêm ở các quan net không hoàn toàn xấu, nhưng nó rất dễ biểu hiện mặt trái của mình, nhất là đối với những học sinh đang ở độ tuổi mới lớn, chưa đủ hiểu biết và dễ bị lôi kéo.
Thứ hai, nơi ở gần hay xa dịch vụ Internet cũng có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến mức độ truy cập mạng của học sinh.
Học sinh phần lớn truy cập ở những quán gần trường học hoặc gần nhà chứ không phải ở trường, vì tuy Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết đến nay đã có 2018/2057 trường trung học phổ thông được kết nối Internet nhưng sự kết nối này trong phạm vi trường thì mới chỉ đến với giáo viên chứ chưa đến với học sinh.
Trên thành phố Hà Nội nói chung và địa bàn phường Nhân Chính nói riêng, các quán Internet mọc lên rất nhiều và mật độ càng dày ở khu vực gần trường học, nên bất cứ học sinh nào muốn vào mạng đều thuận tiện. Tuy vậy, nếu có quán Internet ở gần nhà, các em sẽ có khả năng tiếp cận với mạng sớm hơn. Chỉ có khoảng 10% học sinh nhà ở gần điểm truy cập Internet (cách nhà ≤ 500m) chưa từng truy cập mạng, trong khi con số này ở những em không ở gần quán Internet là gần gấp đôi. Nhưng trong đối tượng đã từng truy cập Internet, việc có quán net ở gần nhà hay không lại không ảnh hưởng nhiều đến mức độ sử dụng, vì các em thường truy cập ở những quán gần trường học, gần lớp học thêm... chứ không nhất thiết phải gần nhà.
* Thường truy cập Internet cùng với ai:
Tuy rằng khi truy cập Internet là đến với một thế giới thông tin hết sức phong phú và những mối quan hệ ảo, nhưng hoạt động truy cập mạng của học sinh phổ thông vẫn có sự liên kết với những mối quan hệ thực ngoài đời.
Bảng 4: Người vào mạng cùng
Người vào mạng cùng
Số lượng
(%)
Bạn bè
104
52.5
Người thân
22
11.1
Bố mẹ
6
3
Một mình
66
33.3
Tổng
198
100
Bản chất Internet có thể coi là một phương tiện truyền thông đại chúng, đồng thời có rất nhiều chức năng khác (học tập, giải trí...) nên việc truy cập một mình là điều bình thường đối với mọi đối tượng sử dụng nó. Nhưng ở học sinh phổ thông, chỉ có khoảng một phần ba thường vào mạng một mình.
Tâm lý thích tụ tập bên bạn bè là một đặc điểm rõ nét của lứa tuổi vị thành niên. Phần lớn các em coi Internet là một phương tiện để giải trí nên thường đến quán net cùng bạn bè. Chính tâm lý này là một lý do khiến việc sử dụng Internet càng được phổ biến rộng rãi trong học sinh phổ thông với tốc độ nhanh chóng hơn ở các lứa tuổi khác. Mặt khác, lứa tuổi học sinh phổ thông còn có tâm lý tò mò, thích học hỏi và ganh đua. Các em dễ cảm thấy lạc lõng nếu bạn bè xung quanh biết và nói chuyện về Internet, game, chat...mà mình lại không biết, không tham gia được: “ Em biết chat là do bạn thân em nó dạy đấy chứ! Thời này mà chỉ biết học, không biết mạng là gì thì “củ chuối” lắm, chúng nó cười cho!” ( PVS 1, N.C.D, Nam, 17 tuổi) - đó cũng là một lý do khiến học sinh truy cập Internet và hay đi cùng bạn bè.
Ở lứa tuổi này, khi tiếp xúc với một nguồn thông tin vô tận như Internet, các em học sinh rất cần có sự hướng dẫn, định hướng của người lớn. Nhưng mới chỉ có rất ít học sinh (3%) từng truy cập mạng với bố mẹ và chỉ 11% cùng với người thân khác. Trong số này chủ yếu rơi vào những gia đình có máy tính nối mạng hoặc có nhu cầu liên lạc với người thân ở xa. Phần lớn các bậc phụ huynh chỉ hạn chế con cái truy cập mạng vì cho rằng nó sẽ có tác dụng tiêu cực chứ chưa tìm hiểu thực sự để có thể hiểu cặn kẽ và hướng dẫn các em sử dụng Internet một cách hợp lý.
Theo kết quả thăm dò trực tuyến của BT Yahoo mà người trả lời là các bậc phụ huynh có máy tính nỗi mạng ở nhà, có đến 93% phụ huynh tự tin rằng mình biết cách giúp con lướt web an toàn, nhưng trong đó chỉ 1/3 là chấp nhận ngồi cùng khi con truy cập Internet. Đó là con số thăm dò chung trên thế giới. Còn ở Việt Nam, tình hình không được khả quan, tiến bộ như vậy. Chỉ khoảng 37.5% phụ huynh thực sự quan tâm đến việc sử dụng Internet tại nhà của con em mình (Lê Nguyễn Bảo Nguyên – Số 1/2004- Tin học và đời sống).
Phụ huynh buông lỏng việc sử dụng Internet của học sinh thường vì ba nguyên nhân chính: do bận mưu sinh; do nuông chiều con cái quá mức; thứ ba là do không đủ trình độ tin học để can thiệp kịp thời. Trong một gia đình, nhất là ở đô thị lớn, hai lý do đầu không phải hiếm và hậu quả của nó đối với học sinh phổ thông không chỉ thể hiện trong việc truy cập Internet bất hợp lý mà còn có thể dẫn đến nhiều điều đáng tiếc khác. Nguyên nhân thứ ba không phải là điều dễ khắc phục, nhất là đối với những người đã nhiều tuổi. Có những người chưa kịp hiểu cặn kẽ về máy vi tính, Internet nhưng lại vội chạy theo phong trào sắm máy vi tính, nối mạng cho con cái trong khi bản thân vẫn mù tin học, lại không dành thời gian học hỏi, để rồi cứ thấy con ngồi “miệt mài” trước máy tính là yên tâm mà không hề biết chính xác chúng đang làm gì trên mạng. Rất hiếm người làm được như vị phụ huynh này: