Trong lịch sử việt nam từ khi dựng nước cho đến nay đã có rất nhiều cuộc cải cách, đổi mới nhằm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước và các chính sách cai trị. Đặc biệt là từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, qua năm thế kỷ phát triển từ các phương thức sản xuất tiền phong kiến sang phong kiến không phải trải qua một cuộc cách mạng vũ trang nào, nhưng lại qua các cuộc cải cách, đổi mới có hiệu quả. Mà đặc biệt là hai cuộc cải cách (của họ Khúc và nhà Hồ) và hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần).
Cả bốn đều nhằm giải quyết những khủng hoảng xã hội, cũng cố lại bộ máy nhà nước, đẩy mạnh tiến bộ xã hội. Nhưng nếu hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần) đã thành công mỹ mãn, cuộc cải cách của họ khúc cũng đã dành được những thắng lợi cơ bản, tạo ra được bước phát triển tích cực của xã hội phong kiến Việt Nam, thì cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã thành công một cách hạn chế mà cái hạn chế lớn nhất lại là sự phá hoại của giặc ngoại xâm. Nó để lại một bài học sâu sắc cho hiện tại. Công cuộc đổi mới, cải cách của chúng ta hiện nay đã kế thừa truyền thống của cha ông, rút ra những kinh nghiệm từ lịch sử dân tộc và thế giới, phát huy đến cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, nắm vững quyền dân tộc tự quyết để không ngùng dành thắng lợi.
9 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4521 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tại sao cải cách của Hồ Quý Ly lại thất bại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Việt Nam
Họ và tên: Đào Văn Huyến - MSSV: 209070059
Đề tài: Tại sao cải cách của Hồ Quý Ly lại thất bại?
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử việt nam từ khi dựng nước cho đến nay đã có rất nhiều cuộc cải cách, đổi mới nhằm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước và các chính sách cai trị. Đặc biệt là từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, qua năm thế kỷ phát triển từ các phương thức sản xuất tiền phong kiến sang phong kiến không phải trải qua một cuộc cách mạng vũ trang nào, nhưng lại qua các cuộc cải cách, đổi mới có hiệu quả. Mà đặc biệt là hai cuộc cải cách (của họ Khúc và nhà Hồ) và hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần).
Cả bốn đều nhằm giải quyết những khủng hoảng xã hội, cũng cố lại bộ máy nhà nước, đẩy mạnh tiến bộ xã hội. Nhưng nếu hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần) đã thành công mỹ mãn, cuộc cải cách của họ khúc cũng đã dành được những thắng lợi cơ bản, tạo ra được bước phát triển tích cực của xã hội phong kiến Việt Nam, thì cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã thành công một cách hạn chế mà cái hạn chế lớn nhất lại là sự phá hoại của giặc ngoại xâm. Nó để lại một bài học sâu sắc cho hiện tại. Công cuộc đổi mới, cải cách của chúng ta hiện nay đã kế thừa truyền thống của cha ông, rút ra những kinh nghiệm từ lịch sử dân tộc và thế giới, phát huy đến cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, nắm vững quyền dân tộc tự quyết để không ngùng dành thắng lợi.
Bản thân là một người dân Việt Nam và cũng vinh dự được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất lịch sử anh Hùng có dòng sông Mã thân thương đó là quê hương Thanh Hóa. Nơi đã nổ ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa như: khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa chiến khu Ba Đình(huyện Nga Sơn)…và là đất tổ của các triều đại như nhà Nguyễn, nhà Lê, Nhà Hồ…Cùng với sự phân công của giáo viên bộ môn và là người được sinh ra tại Thanh Hóa cũng muốn được giới thiệu về những gì liên quan dến lịch sử của quê mình, em xin chọn đề tài “Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly”. Em hy vọng qua bài tiểu luận này em và các bạn có thể nắm rõ hơn về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly, và cũng mong được thầy và các bạn điểm thêm vào những gì còn khiếm khuyết giúp cho bài làm được hoàn thiện hơn.
NỘI DUNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH
Cải cách hành chính
Cùng với quá trình đi lên con đường chính trị Hồ Quý Ly từng bước thực hiện những cải cách hành chính trên một số lĩnh vực
( Về tổ chức hành chính: Từ năm 1375, khi được giao chức tham mưu quân sự, Quý Ly đã đề nghị chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyệ tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng coi quân.
( Từ năm 1397, Hồ quý Ly đã đổi một số lộ ở xa thành trấn như: Thanh Hóa đổi thành trấn Thanh Đô, Quốc Oai thành trấn Quãng Oai, Diễn Châu đổi thành trấn Vọng Giang,… và nâng một số châu lên thành lộ. Ở các lộ thống nhất việc chỉ huy quân sự và hành chính trong tay những quan chức gọi là Đô hộ, Đô thống, Tổng quản do các đại thần nắm. Các lộ vẫn đặt chánh, phó An phủ sứ như cũ, ở phủ đặt chánh, phó Trấn phủ như cũ; ở châu đặt Thông phán và Thiên phán; ở huyện đặt lệnh úy và chủ bạ, bỏ đại tiểu, tư xã và giữ giáp như cũ. Ở các trấn việc việc cai trị nặng nề mang tính chất quân sự. Để tăng cường giao thông liên lạc giữa trung ương và địa phương, các hệ thống trạm dịch được bổ sung. Để bảo đảm an ninh ở mỗi lộ có đặt chức liêm phóng sứ- một chức quan chuyên trông coi việc dò xét tình hình, trông coi bộ máy mật thám và dò la tin tức. Đồng thời quy định chế độ làm việc: “lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng dều làm gộp một sổ của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét,
Khu vực quanh thành Thăng Long được Hồ Quý Ly đổi thành Đông Đô lộ do phủ đô hộ cai quản. Hồ quý Ly cho dời đô về An Tôn (Tây Đô). Cùng năm này Hồ Quý Ly cho nhân dân xây kinh đô mới ở An Tôn( Vĩnh Tôn- Thanh Hóa), để lại cho đời sau một công trình kiến trúc lớn, tục gọi là thành nhà Hồ.
Hồ Quý Ly cũng định cách thức mũ và phẩm phục của các quan văn võ: Nhất phẩm màu áo tía, nhị phẩm áo màu đại hồng, tam phẩm áo màu hoa đào, tứ phẩm màu lục, ngũ phẩm trở xuống màu xanh biếc. Chế độ Thái thượng hoàng được bãi bỏ cuối thời trần, nhưng đến khi nhà trần thành lập, năm 1404 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và tự xưng là Thái Thượng hoàng.
Về hành chính địa phương của nhà Hồ cơ bản giống Nhà Trần:
Không theo nề nếp nhà tiền Lê, Lý, Trần phong tặng quan tước cho quý tộc tôn thất. Không đưa nhiều quý tộc nhà Hồ vào bộ máy nhà nước. Hồ Hán Thương “cấm người tôn thất, cung nhân không được xưng quý hiệu, người vi phạm bị trị tội”
Cải cách quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, chủ yếu là quan hệ ruộng đất bằng chính sách “hạn điền”
Mục tiêu của hạn điền là hạn chế chiếm hữu lớn về đất đai của quý tộc phong kiến:
Chiếm hữu lớn về ruộng đất của nhà Trần vừa là do phân phong, vừa là do chiếm dụng: “Trước kia các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bồi ở bờ biển để ngăn nước mặn, sau hai, ba năm khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều đất tư trang”
Năm 1397, tháng 6 (âm lịch) xuống chiếu hạn chế danh điền (tức ruộng có người đứng tên. Riêng đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế. Đến thứ dân thì số ruộng đến 10 mẫu. Người nào có nhiều thì tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội. Bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”.
“Hạn điền đánh vào nền tảng kinh tế của quyền uy chính trị của quý tộc phong kiến. Tuy vậy cải cách này cũng chỉ là nửa vời. Bởi vì trong khi xã hội đang có yểu cầu tư hữu hóa ruộng đất để phát triển kinh tế hàng hóa tiền tệ và giải quyết nạn thiếu đói, thì số ruộng đất ngoài 10 mẫu được lấy ra lại bị xung công “hiến cho nhà nước” biến thành quan điền”
Tuy việc đưa ruộng đất rút ra từ “hạn điền” vào sở hữu chung của nhà nước phong kiến quan liêu như vậy là tiến bộ hơn sở hữu lớn của phong kiến quý tộc, nhưng nó cũng chỉ có tác dụng củng cố quyền lực Nhà nước chứ không phát triển được kinh tế, cải thiện được dân sinh, tăng cường được khối đoàn kết dân tộc chống ngoaị xâm.
Phần náo đó là sự duy trì tính chất công hữu về ruộng đất của phương thức sản xuất châu Á mà đến thế kỷ XV đã quá lỗi thời.
Cải cách quan hệ sở hữu sức lao động bằng biện pháp “hạn nô”
Chính sách hạn nô được ban hành sau chính sách hạn điền 4 năm tức là vào năm 1401.
Chính sách hạn nô được tiến hành như sau:
Năm 1401, Hán Thương lập phép hạn chế gia nô: “Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên nhà nước. Mổi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư ba đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này. Các nô đều thích vào trán để đánh dấu,…”
Mục tiêu của “hạn nô” cũng đồng nhất với “hạn điền” là đánh vào cả thế và lực của quý tộc phong kiến, như sử cũ ghi rõ: “Bấy giờ bọn sĩ đại phu tham phú quý, mong được lòng họ Hồ, đâng thư khuyên giết hại con cháu
nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ, như bọn Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Hy Chu, Đồng Thức, còn lại thì nhiều vô kể”
Đây không chỉ giảm ưu thế về kinh tế, mà còn làm giảm sức mạnh quân sự của quý tộc. Sức mạnh quân sự của gia nô, nô tì thời Trần đả được biểu lộ trong cuộc chiến thắng Nguyên Mông, nay quý tộc có thể dùng sức mạnh đó đánh vào “kẻ tiếm ngôi” là Hồ Quý Ly”, buộc họ Hồ phải đề phòng. Mặt khác cũng để hạn chế sự rối loạn xã hội bởi vì trong khủng hoảng, nhiều gia nô đã bỏ chủ đi theo nông dân khởi nghĩa,..
Nhưng cũng như hạn điền, “hạn nô” cũng là chính sách nửa vời.
Đáng lẻ “hạn nô” là để giải phóng sức sản xuất xã hội, thì đây lại đưa nô xung công và xung vào quân dịch để cũng cố chế độ phong kiến quan liêu. Như vậy là vẫn duy trì tàn dư của phương thức sản xuất châu Á về công hữu hóa sức lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế hàng hóa- tiền tệ. Cũng có thể nói như ngôn ngữ ngày nay là “hạn nô” đúng ở đầu vào nhưng sai ở đầu ra.
Cải cách văn hóa, giáo dục
Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước. Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như ty y tế ngày nay). ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.
Khuyến khích sử dụng chữ Nôm, tự mình làm thơ chữ Nôm và giải nghĩa Kinh thi bằng chữ Nôm. - Phát huy tác dụng Nho giáo: Năm 1392 làm sách Minh Đạo (“Con đường sáng”) 14 thiên (cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư", nêu ra “bốn chỗ đáng ngờ trong sách Luận ngữ".
Năm 1395 dịch thiên "Vô dật" (Không lười biếng) trong Kinh thư ra chữ Nôm nếu tấm gương của các vua hiền thời xưa để dạy vua Thuận Tông. - Đề cao lối học thực dụng cần thiết cho ca chế quan liêu : Phê phán những người chỉ biết chắp nhặt văn chương, tuy học rộng nhưng viễn vông.
Năm 1396, Hồ Quý Ly cho sửa đổi chế độ thi cử, đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành. Những người đã thi hội phải làm thêm một bài văn sách do vua đề ra để định thứ bậc. Trong bốn trường thi, Hồ Quý Ly bỏ trường thi ám tả văn cổ thay bằng thi kinh nghĩa. Năm 1404, ông đặt thêm trường thứ 5, thi viết chữ và toán.
Năm 1397, ban hành chính sách khuyến học cho mở trường đến các phủ châu, ban quan điền để chi về việc học. - Cải tiến thi cử, mở nhiều khoa thi kén chọn người tài. Chỉ riêng khoa thi Thái học sinh năm 1400 đã có 20 người thi đỗ, trong đó có những danh nho như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Mộng Tuân...'. Ông cho đặt chức giáo thụ trông coi việc học, cho mở trường đến các phủ châu, bán quan điền để chi vào việc học.
Cải cách tài chính- phát hành tiền giấy
Cải cách tiền tệ là một biện pháp mới, lần đầu tiên được thực hiện ở Đại Việt. Thoạt nghe như thấy là tiến bộ, bởi kinh tế hàng hóa tiền tệ đã có phần nào khởi sắc ở thời Trần, lại cần kinh tế Đại Việt hội nhập được vào kinh tế thế giới, nhất là ở khu vực Đông và Đông Nam Á lúc này- nơi nền kinh tế hóa- tệ đang lên. Tháng 4-1396, thực hiện chủ trương phát hành tiền giấy: “năm 1396 tháng 4 bắt đầu phát hành ( tiền giấy thông bảo hội sao…thể thức tiền giấy: gồm 7 loại: 10 đồng 30 đồng 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền , 5 tiền,1 quan đều có hình in khác nhau “ giấy 10 đồng vẻ rau tảo giấy 30 đồng vẻ sóng nước, giấy 1 tiền vẻ mây,giấy 2 tiền vẻ con rùa, giấy 3 tiền vẻ con lân, giấy 5 tiền vẻ con phượng, giấy 1 quan vẻ con rồng”
Hồ Quí Ly ra lệnh :"Cấm tuyệt tiền đồng. Kẻ nào vi phạm bị trị tội như làm tiền giả. Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch thu" . Tháng 9-1399, để bảo vệ vòng thành kinh đô băng tre gai vừa mới xây dựng ở Tây Đô (Thanh hoá), Quí Ly ra lệnh: "Dân chúng ai lấy trộm măng tre bị xử tử" , Nguyên nhân dẫn đến cải cách thì nhiều, có thể do bắt chước trung quốc, có thể vì nhu cầu quân sự ( thu đòng để đúc vũ khí)…,củng có thể do yêu cầu phát trienr kinh tế đại việt mà hồ quý ly đã cảm nhận được.
Việc đề ra những biện pháp cưỡng ép nghiêm ngặt như trên đã phần nào phản ánh sự mất lòng dân( vì kinh tế tiền tệ phát huy tác dụng theo những quy luật khách quan của nó, không thể dùng những biện pháp hành chính để cưỡng ép được)
Cải cách về quân sự
Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v. Ông thường hỏi các quan: “Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để dánh giặc Bắc? ”
Để có nhiều quân, năm 1401 Hồ Quý Ly lập ra hộ tịch bắt mọi người cứ 2 tuổi trở lên phải kê khai ai ẩn náu phải phạt. Hộ tịch làm xong, số người từ 15 tuổi đến 60 hơn gấp mấy lần trước. Quân số do vậy tăng thêm nhiều.
Năm 1402, xét duyệt quân ngũ, chọn tráng đinh, cho người nghèo sung vào quân trợ dịch sau đó đổi thành quân bồi vệ,…
Hồ Quý Ly đặc biệt chú trọng luyện tập thủy binh để giữ mặt sông mặt biển. Ông cho đóng những con thuyền lớn bên trên lát ván để đi lại dễ dàng, khoang dưới cho người chèo chống rất lợi hại. ở các cửa bể và những nơi hiểm yếu trên các sông lớn, ông cho đóng cọc, hình thành những trận địa mai phục quy mô.
Năm 1405, chấn chỉnh lại tổ chức quân đội. Về biên chế quân đội, Quý Ly phân chia Nam Bắc gồm 12 vệ, Đông Tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội, trung quân 20 đội Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Ngoài ra còn 5 đội cấm vệ quân. Tất cả do một Đại tướng thống lĩnh.
Ông còn cho xây dựng thành trì mới, xây dựng kinh đô ở An Tôn (Vĩnh Tôn- Thanh Hóa)
Năm Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng, chịu lép không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: Đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho con cả là Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đắp thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói: "Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi." Chính vì họ Hồ không được lòng dân nên khi Trương Phụ và Mộc Thạnh đem 20 vạn bộ binh kỵ binh và hàng chục vạn phu dịch sang xâm lược nước ta, triều Hồ đã thất bại.
Trước các mũi tiến công của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (20-1-1407) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22-1-1407, quân địch tràn xuống chiếm kinh thành Thăng Long. Quân nhà Hồ lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo bọn thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa.Đến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Tướng Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu:
“Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn.” Hồ Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi (1407). Có thuyết nói ông bị nhà Minh sát hại khi sang Yên Kinh (Bắc Kinh), có thuyết lại nói ông bị đày làm lính ở Quảng Tây.Nhà Hồ làm vua từ năm Canh Thìn (1400) đến năm Đinh Hợi (1407), được trọn 7 năm thì sụp đổ. Việt Nam lại nằm trong vòng đô hộ nhà Minh.
Phần II: NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA CUỘC CẢI CÁCH
Thứ nhất: Nhiều chính sách của Hồ Quý Ly không phù hợp với điều kiện lịch sử hiện tại, quá sức so với hoàn cảnh của lịch sử lúc đó: chính sách tiền giấy tuy có tư tưởng tiến bộ tuy nhiên so với hoàn cảnh lịch sử lúc đó là hoàn toàn không phù hợp, nhân dân không quen dùng tiền giấy do đó chính sách phát hành tiền giấy không phát huy hiệu quả.
Thứ hai: Nhiều chính sách thực hiện không triệt để như “hạn điền”, “hạn nô” do đó không đem lại hiệu quả. Hai chính sách này có thể nói này về tư tưởng là tiến bộ nhưng việc thực hiện lại không mang lại kết quả, chúng đều là những chính sách nửa vời, đúng ở đầu vào nhưng sai ở đầu ra. Do đó đã không giải phóng được sức lao động để phát triển kinh tế.
Thứ ba: Nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất bại của nhà Hồ đó là do họ không được lòng dân. Hồ Nguyên Trừng đã từng nói: “Không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.Cuộc tàn sát đẫm máu đối với quý tộc nhà Trần của Hồ Quý Ly, đã gây nên sự bất mãn của nhân dân. Nhân dân lúc này cũng đang rất coi trọng nhà trần. Hồ Quý Ly luôn bị coi là “kẻ tiếm ngôi”. Ngoài ra nhiều chính sách đàn áp dã man của hồ quý ly đã gây nên sự chống đối của nhân dân. Sự áp đặt nhân dân trong việc sử dụng tiền giấy đã không những không mang lại kêt quả mà còn gây ra sự chông đối mạnh mẽ trong nhân dân.
Thứ tư: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra trong hoàn cảnh đầy khó khăn và phức tạp: khủng hoảng kinh tế- xã hội trên nhiều măt:
(Cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa tư tưởng phật giáo và nho giáo
(Nhân dân cực khổ, nạn đói mất mùa liên tục xảy ra
(Quý tộc nhà Trần ra sức chống đối họ Hồ, với tư tưởng “phù Trần, giệt Hồ”
(Bên ngoài thì giặc Minh đang hăm he xâm chiếm nước ta
Thứ năm: Năng lực của Hồ Quý Ly bị hạn chế:
Tài năng kinh tế của Hồ Quý Ly chưa cao, tuy bắt mạch trúng được yêu cầu giải quyết khủng hoảng nhưng các biện pháp lại nửa vời không đáp ứng được mục tiêu. Ông thiếu đức “khoan dân” để thu phục lòng dân.
Hồ Quý Ly thiếu năng lực về quân sự, thiếu gương mẩu trong việc dùng quân.
Thứ sáu: cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra trên nhiều mặt nên không phát huy được hiệu quả. Thiếu nguồn lực để thực hiện cải cách do cuộc cải cách không tập trung mà bị dàn trải đi rất nhiều, dẫn đến “Làm không đến nơi đến chốn”