Cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự giám sát của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đổi mới của các doanh nghiệp Nhà nước, đã đặt ra một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp dần được chuyển đổi hình thức sở hữu sang cổ phần, hoặc Công ty TNHH một thành viên hoặc nhiều thành viên, và được quản lý theo một cơ chế phù hợp hơn. Có thể nói, thời gian qua, quản lý nhà nước về mặt tài chính doanh nghiệp đã có bước chuyển đổi cơ bản từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế tự chủ trong kinh doanh, tách biệt rõ hơn chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhờ đó các doanh nghiệp phần nào khẳng định được vị trí quan trọng trong việc tạo thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Song hiệu quả của các doanh nghiệp sau chuyển đổi còn thấp là thực tế không thể phủ nhận, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên là sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn, sự yếu kém trong công tác huy động vốn. Bởi vậy nếu doanh nghiệp không tiếp tục đổi mới nâng cao khả năng tiếp cận và huy động vốn, sử dụng vốn có hiệu quả thì các doanh nghiệp khó có thể phát triển ổn định, càng không thể đứng vững trong thương trường cạnh tranh khi tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực đang diễn ra.
Vốn luôn là yếu tố được đặt lên hàng đầu trong các doanh nghiệp khi bắt đầu bất kỳ một kế hoạch gì. Do vậy, việc lựa chọn một hình thức huy động vốn hiệu quả đóng vai trò quyết định đến thành công của dự án kinh doanh nói riêng và sự phát triển của doanh nghiệp nói chung. Mỗi một doanh nghiệp đều có nhiều cách khác nhau để huy động vốn phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, một thực tế là huy động vốn như thế nào, bao nhiêu thì đủ, thì hiện nay doanh nghiệp lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát sinh trong từng nghiệp vụ, mà không hề có một kế hoạch dài hạn cho vấn đề này.
76 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường huy động vốn tại Công ty cổ phần thép Việt Ý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự giám sát của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đổi mới của các doanh nghiệp Nhà nước, đã đặt ra một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp dần được chuyển đổi hình thức sở hữu sang cổ phần, hoặc Công ty TNHH một thành viên hoặc nhiều thành viên, và được quản lý theo một cơ chế phù hợp hơn. Có thể nói, thời gian qua, quản lý nhà nước về mặt tài chính doanh nghiệp đã có bước chuyển đổi cơ bản từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế tự chủ trong kinh doanh, tách biệt rõ hơn chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhờ đó các doanh nghiệp phần nào khẳng định được vị trí quan trọng trong việc tạo thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Song hiệu quả của các doanh nghiệp sau chuyển đổi còn thấp là thực tế không thể phủ nhận, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên là sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn, sự yếu kém trong công tác huy động vốn. Bởi vậy nếu doanh nghiệp không tiếp tục đổi mới nâng cao khả năng tiếp cận và huy động vốn, sử dụng vốn có hiệu quả thì các doanh nghiệp khó có thể phát triển ổn định, càng không thể đứng vững trong thương trường cạnh tranh khi tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực đang diễn ra.
Vốn luôn là yếu tố được đặt lên hàng đầu trong các doanh nghiệp khi bắt đầu bất kỳ một kế hoạch gì. Do vậy, việc lựa chọn một hình thức huy động vốn hiệu quả đóng vai trò quyết định đến thành công của dự án kinh doanh nói riêng và sự phát triển của doanh nghiệp nói chung. Mỗi một doanh nghiệp đều có nhiều cách khác nhau để huy động vốn phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, một thực tế là huy động vốn như thế nào, bao nhiêu thì đủ,… thì hiện nay doanh nghiệp lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát sinh trong từng nghiệp vụ, mà không hề có một kế hoạch dài hạn cho vấn đề này.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi loại vốn có những đặc điểm khác nhau, do đó công ty cần xem xét kỹ lưỡng để quyết định mức huy động đối với mỗi loại vốn. Cụ thể, với nguồn vốn vay tín dụng: Công ty phải trả lãi vay tín dụng, mặc dù phần lãi vay này không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh, nhưng công ty phải chịu sức ép về hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn, làm tăng hệ số nợ dẫn đến gia tăng rủi ro về nợ. Trong khi đó, nếu sử dụng vốn chủ sở hữu, công ty không phải đáo hạn vốn gốc, làm tăng hệ số vốn chủ sở hữu. Khoản vốn này không bắt buộc phải trả lãi vay cố định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng phải chịu sức ép đó là sức ép từ các cổ đông đối với người quản lý điều hành. Bởi công ty phải thực hiện được các chỉ tiêu hiệu quả về tài chính, nhất là chỉ tiêu về cổ tức và cổ đông…
Thời gian thực tập tại Công ty cổ phần thép Việt – Ý (VIS) tôi nhận thấy: Để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và phát triển VIS cần rất nhiều vốn. Tuy nhiên công tác huy động vốn tại VIS gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế xã hội phát triển, môi trường cạnh tranh gay gắt bản thân VIS còn nhiều sự ràng buộc về cơ chế quản lý đã khiến VIS không thể huy động vốn có hiệu quả, và khai thác triệt để tiền năng của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu và tăng cường giải pháp cho công tác huy động vốn tại VIS có hiệu quả là vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Trong giới hạn điều kiện và thời gian cho phép tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại Công ty cổ phần thép Việt – ý” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp. Hy vọng với những kiến thức đã học tại trường tôi có thể góp phần nhỏ vào sự phát triển của doanh nghiệp, và tôi cũng học được nhiều điều bổ ích trong đợt thực tập này.
Ngoài phần mở đầu, và kết luận nội dung chuyên đề bao gồm:
Chương 1: Nguồn vốn và huy động vốn trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng tăng cường huy động vốn tại Công ty CP thép Việt - Ý
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn trong Công ty CP thép Việt - Ý
Chương I
NGUỒN VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
Tổng quan về vốn, nguồn vốn trong doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm và phân loại
Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là điều kiện không thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Trong cuốn Từ điển kinh tế hiện đại có giải thích:
"Capital - tư bản/vốn: một từ dùng để chỉ một yếu tố sản xuất do hệ thống kinh tế tạo ra. Hàng hoá tư liệu vốn là hàng hoá được sản xuất để sử dụng như yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất sau. Vì vậy, tư bản này có thể phân biệt được với đất đai và sức lao động, những thứ không được coi là do hệ thống kinh tế tạo ra. Do bản chất không đồng nhất của nó mà sự đo lường tư bản trở thành nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cãi trong lý thuyết kinh tế." [1]
Vốn là biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư. Các nguồn lực có thể là của cải vật chất, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động, là các tài sản vật chất khác.
Nguồn vốn và tài sản là hai mặt khác nhau của vốn trong doanh nghiệp. Tài sản biểu hiện trạng thái cụ thể của vốn, cái đang có và tồn tại, còn nguồn vốn là biểu hiện mặt trừu tượng, chỉ ra phạm vi sử dụng hay nguồn huy động tài sản. Một tài sản có thể được tài trợ từ một hay nhiều nguồn vốn khác nhau, và ngược lại một nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên một hay nhiều loại tài sản khác nhau.[2]
Xét theo nguồn hình thành, toàn bộ vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn nợ phải trả.[2]
Nguồn vốn chủ sở hữu:
Là số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và các nhà đầu tư tự góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ.
Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp, mà một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước vốn hoạt động do nhà nước cấp hoặc đầu tư nên Nhà nước là chủ sở hữu.
Đối với các doanh nghiệp liên doanh, liên kết chủ sở hữu vốn là các thành viên tham gia góp vốn hoặc các cá nhân tham gia hùm vốn
Đối với các công ty cổ phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu vốn là cá nhân, hoặc một hộ gia đình.
Vốn chủ sở hữu bao gồm:
Vốn góp do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc mở rộng kinh doanh và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ sung tăng thêm hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh.
Lợi nhuận chưa phân phối. Các quỹ…
Vốn chủ sở hữu khác:
Nợ phải trả:
Là số tiền vốn mà doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức, cá nhân và do vậy doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả; bao gồm các khoản nợ tiền vay, các khoản nợ phải trả cho người bán, cho Nhà nước, cho công nhân viên và các khoản phải trả khác. Nợ phải trả bao gồm nợ ngắn hạn và dài hạn.
Nợ ngắn hạn: Là khoản tiền mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả trong vòng một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một năm. Các khoản nợ này được trang trải bằng tài sản lưu động hoặc bằng các khoản nợ phát sinh. Nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn, thương phiếu phải trả, khoản nợ dài hạn đã đến hạn trả, tiền phải trả cho người bán, tiền nhận thầu, thuế và các khoản phải nộp ngân sách, lượng, phụ cấp phải trả cho công nhân viên, các khoản nhận ký quỹ, ký cược ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn khác.
Nợ dài hạn: là các khoản nợ mà thời gian trả nợ trên một năm, bao gồm: Vay dài hạn cho đầu tư phát triển, nợ thế chấp phải trả, thương phiếu dài hạn, trái phiếu phải trả, các khoản nhận ký quỹ, ký cược dài hạn, các khoản phải trả dài hạn khác.
1.1.2 Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Để thành lập một doanh nghiệp, tiến hành sản xuất kinh doanh, thì vốn là điều kiện tiên quyết không thể thiếu.
Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có thể khái quát như sau:
Để có được đầu vào phục vụ cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước và lượng tiền ứng trước này chính là vốn của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp bao gồm tài sản và nguồn vốn, nguồn vốn được kết tinh trong quá trình đầu tư tạo ra tài sản. Do vậy một doanh nghiệp nếu sử dụng hiệu quả nguồn vốn và có cơ cấu vốn hợp lý thì sẽ tạo ra hiệu quả trong kinh doanh.
Do vậy vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp:
Vốn là điều kiện tiền đề để thành lập doanh nghiệp.
Vốn có phạm vi hoạt động rộng và là cơ sở để đa dạng hoá ngành nghề trong doanh nghiệp.
Vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra trình tự, từ lúc mua các yếu tố đầu vào đến khâu tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra vốn còn giúp doanh nghiệp hạn chế các rủi ro, biến động và tổn thất trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Nguồn vốn trong doanh nghiệp bao gồm vốn chủ và vay nợ. Việc huy động vốn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển quy mô và phát triển của doanh nghiệp. Nếu trong một doanh nghiệp chỉ dựa vào vốn chủ ban đầu khi thành lập mà không có kế hoạch huy động vốn, tăng quy mô vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, thì doanh nghiệp đó hoạt động cầm chừng và chỉ chống lại được sự phá sản trong tương lai. Nói các khác, nếu một doanh nghiệp không có khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn để tạo ra được một cơ cấu vốn hợp lý cho sự phát triển thì nguy cơ phá sản là một yếu tố khó tránh khỏi. Do đó, nguồn vốn có vai trò to lớn trong sự phát triển của doanh nghiệp:
Đảm bảo cho doanh nghiệp có vốn, cung ứng vốn cho doanh nghiệp khi cần.
Xây dựng cơ cấu vốn hợp lý, với chi phí vốn phù hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Đồng thời là điều kiện đảm bảo mở rộng quy mô, tăng hiệu quả đầu tư vào dự án phát triển doanh nghiệp.
Do vậy, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì nguồn vốn phải được đảm bảo và được sử dụng một cách linh hoạt hiệu quả. Không có nguồn vốn thì doanh nghiệp không thể tồn tại.
1.2 Các hình thức huy động vốn trong doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm.
Trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp người ta chú ý đến việc quản lý việc huy động và luân chuyển của vốn. Việc huy động các nguồn tài chính khác nhau đảm bảo cho nhu cầu về vốn của doanh nghiệp được thực hiện dưới nhiều hình thức như: Ngoài cách huy động truyền thống như: cấp phát, xin hỗ trợ, … thì hiện nay doanh nghiệp đã có nhiều phương thức hiệu quả hơn như: Góp vốn, phát hành cổ phiếu, vay ngân hàng, tín dụng thương mại, thuê mua…
1.2.2 Các hình thức huy động vốn.
Việc lựa chọn một hình thức huy động vốn đóng vai trò quyết định đến sự thành công của dự án kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể có nhiều hình thức huy động vốn khác nhau, nhưng lựa chọn hình thức huy động nào thì còn phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh mà ra quyết định lựa chọn hình thức huy đông. Tưu chung lại có các hình thức huy động vốn đối với doanh nghiệp như sau:
Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp:
Là lượng giá trị mà các chủ doanh nghiệp đưa vào để thành lập và duy trì hoạt động doanh nghiệp, đây được coi là sự góp vốn dài hạn, không có kỳ hạn thanh toán nhất định. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn tự có là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước. Đối với công ty cổ phần hoặc công ty TNHH, nguồn vốn ban đầu do các cổ đông hoặc thành viên đóng góp để hình thành công ty. Đối với các Công ty cổ phần,vốn kinh doanh có thể huy động thêm từ việc phát hành cổ phiếu. Công ty TNHH không thể phát hành cổ phiếu mà chỉ có thể phát hành trái phiếu.
Các doanh nghiệp có thể huy động vốn chủ sở hữu bằng nhiều cách: vốn góp ban đầu, phát hành cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thưởng hay giữ lại lợi nhuận:
Vốn góp ban đầu:
Các doanh nghiệp khi mới thành lập đều có một lượng vốn ban đầu từ các thành viên sáng lập. Đây chính là vốn được ghi trong điều lệ doanh nghiệp, là bộ phận quan trọng của vốn chủ sở hữu. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ tăng hoặc giảm tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chiến lược huy động vốn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cổ phần có thể gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, các doanh nghiệp góp vốn có thể giữ lại lợi nhuận hay kêu gọi thêm vốn góp từ các nhà thành viên.
Phát hành cổ phiếu ưu đãi:
Cổ phiếu ưu đãi là những cổ phiếu có một số đặc điểm quyền ưu đãi so với cổ phiếu thường, ví dụ: ưu đãi về quyền bỏ phiếu, ưu đãi về thứ tự ưu tiên chi trả cổ tức, … Do đó, cổ phiếu ưu đãi thường được phát hành cho các cổ đông truyền thống để tránh nguy cơ thôn tính hay sát nhập vì việc chuyển nhượng các cổ phiếu ưu đãi bị giới hạn hơn so với cổ phiếu thường.
Đặc điểm cơ bản của cổ phiếu ưu đãi là cổ tức chi trả cho các cổ đông là cổ định, cổ đông không được hưởng quyền thu nhập thặng dư như cổ đông sở hữu cổ phiếu thường. Do vậy doanh nghiệp sẽ phát hành cổ phiếu ưu đãi để huy động vốn trong trường hợp muốn giảm chi phí vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ gặp phải áp lực chi trả cổ tức mạnh hơn vì cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi được quyền trả cổ tức trước các cổ đông sở hữu cổ phiếu thường. Thậm trí nếu thu nhập sau thuế của doanh nghiệp chỉ đủ trả cổ tức ưu đãi thì doanh nghiệp không phải trả cổ tức cho cổ phiếu thường. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vẫn phải có trách nhiệm chi trả cổ tức ưu đãi vào năm sau nếu năm sau có lãi.
Phát hành cổ phiếu thường:
Sự khác biệt giữu cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường là cổ phiếu thường không những được chi trả cổ tức với tỷ lệ doanh nghiệp cam kết khi phát hành mà các cổ đông còn có quyền hưởng thu nhập thặng dư nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi nhiều hơn dự kiến. Điều này hoàn toàn hợp lý vì việc đầu tư vào cổ phiếu thường rủi ro hơn so với cổ phiếu ưu đãi nên các cổ đông phải đòi hỏi lãi suất cao hơn. Do đó, đối với doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu ưu đãi sẽ phải trả chi phí cao hơn so với cổ phiếu thường.
Lợi nhuận không chia:
Thông thường các cổ đông sẽ được nhận cổ tức vào cuối năm tài chính từ thu nhập sau thuế. Tuy nhiên, trong một số trường hợp các cổ đông sẽ đồng ý cho doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư mà không nhận cổ tức. Đây là nguồn vốn rất chủ động và thuận tiện cho các doanh nghiệp, tuy nhiên chi phí lại tương đối cao, đối với các cổ đông đây lại là chi phí cơ hội. Do vậy muốn giữ lại để tái đầu tư, doanh nghiệp phải cam kết trả cho các cổ đông lãi suất cao hơn lãi cổ tức hiện tại.
Các doanh nghiệp có thể lựa chọn giữ lại bằng hai cách: 1) ghi tăng mệnh giá của cổ phiếu đang lưu hành hoặc 2) phát hành thêm cổ phiếu mới tương ứng với giá trị cổ tức trả cho các cổ đông đam nắm giữ. Với cách thứ nhất, sẽ làm cho giá cổ phiếu tăng, thường được áp dụng khi doanh nghiệp phát triển ở mức trung bình, muốn tăng giá cổ phiếu một cách nhanh chóng trên thị trường. Cách thứ hai, khi phát hành thêm cổ phiếu mới sẽ dẫn đến hiệu ứng pha loãng, làm giảm giá cổ phiếu, vì vậy phương thức này thường được áp dụng với những doanh nghiệp phát triển nóng, muốn giảm giá cổ phiếu trên thị trường.
Huy động nợ:
Ngoài phần vốn tự có của doanh nghiệp (vốn góp) thì nguồn vốn vay có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trong ngắn hạn hoặc dài hạn, có thể huy động được số vốn lớn, tức thời. Tuy nhiên, sử dụng vốn vay phải hết sức chú ý đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế hoạch sử dụng vốn phải đảm bảo hợp lý, đúng mục đích; quản lý tốt Quỹ tiền mặt, kỳ trả nợ và kỳ thu tiền, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải được lập bám sát thực tế,... nếu không vốn vay sẽ trở thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp.
Phân loại theo tính chất kỳ hạn, nợ của doanh nghiệp được chia thành nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn:
Nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các khoản phải trả nhà cung cấp, khoản phải nộp nhà nước hay cấp trên, phải trả cán bộ công nhân viên hay phát hành trái phiếu ngắn hạn. Thông thường vốn ngắn hạn thường được huy động để bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp, đầu tư vào các tài sản ngắn hạn, có chu kỳ quay vòng ngắn. Các hình thức huy động khoản nợ ngắn hạn bao gồm:
Vay ngắn hạn ngân hàng: Vay ngắn hạn ngân hàng thường được sử dụng trong trường hợp thiếu hụt tiền tạm thời để đáp ứng nhu cầu chi trả, ví dụ chi tả lương cán bộ công nhân viên, chi trả tiền mua nhiên liệu, … Điều kiện để doanh nghiệp vay ngắn hạn ngân hàng tương đối đơn giản, chủ yếu dựa trên các mối quan hệ sẵn có. Hơn nũa ngay cả khi doanh nghiệp đã vay dài hạn để đầu tư dự án vẫn có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu quản lý dòng tiền của dự án. Lãi suất vay ngắn hạn về nguyên tắc nhỏ hơn lãi suất vay dài hạn, tuy nhiên trong một số trường hợp các chi phí giao dịch sẽ đẩy chi phí thực của doanh nghiệp khi tiếp cận với khoản vay ngắn hạn tăng lên.
Các hình thức vay vốn ngắn hạn ngân hàng phổ biến: vay luân chuyển và vay theo hạn mức. Vay luân chuyển là hình thức vay vốn mà doanh nghiệp được phép thực hiện quay vòng nhiều lần vốn vay với chỉ một hợp đồng tín dụng. Với hình thức vay vốn này, doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian, chi phí vì chỉ cần ký kết một hợp đồng mà được vay nhiều lần. Thông thường hợp đồng vay luân chuyển sẽ có giá trị trong một khoản thời gian xác định thường là một năm. Trong khoảng thời gian đó, căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ tự động cấp vốn cho doanh nghiệp nhiều lần mà không cần phải ký thêm bất cứ một hợp đồng nào. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ ưa thích sử dụng hình thức này để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Với hình thức vay hạn mức, theo hình thức này doanh nghiệp sẽ được ngân hàng cấp cho một khoản tín dụng tối đa trong một khoản thời gian xác định. Để xây dựng hạn mức thích hợp, ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó xác định nhu cầu vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp, rồi đối chiếu với khả năng cung cấp vốn của ngân hàng. Khi đó ngân hàng và doanh nghiệp đều phải chủ động trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh nói chung và kế hoạch huy động vốn nói riêng. Đôi khi, vay theo hạn mức của ngân hàng cản trở doanh nghiệp tiến cận những cơ hội kinh doanh đột xuất ngoài dự kiến, vì doanh nghiệp không thể vay quá hạn mức mà doanh nghiệp đã ký kết với ngân hàng. Do vậy, một số doanh nghiệp thường ký kết hợp đồng vay vốn hạn mức với nhiều ngân hàng trong cùng một khoảng thời gian nhằm tối đa hoá khả năng huy động vốn ngắn hạn.
Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp (Tín dụng thương mại): Đây cũng là một nguồn vốn tương đối quan trọng trong doanh nghiệp. Khác với tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại là nguồn vốn được xuất phát trên cơ sở hàng hoá. Nghĩa là, khi hai bên bán hàng và mua hàng đã thoả thuận được đầy đủ các điều kiện của hợp đồng mua bán hàng hoá, thì bên chấp nhận cho bên mua trả chậm với điều kiện nhất định. Thông thường, các khoản tín dụng nhà cung cấp không phải trả chi phí, nhưng lại đáp ứng được việc doanh nghiệp có nguyên vật liệu, điện, nước, .... để sản xuất kinh doanh mà chỉ phải bỏ ra ngay lập tức một số tiền ít hơn số tiền đáng lẽ phải bỏ ra ngay lập tức để có được số nguyên vật liệu, điên, máy móc, .... để tiến hành sản xuất. Như vậy, doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ tiền mặt của mình cho mục đích khác. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận với khoản vốn này, sử dụng nguồn vốn này cần lưu ý: không nên chiếm dụng quá nhiều hoặc quá lâu một khoản nợ nào đó vì nó sẽ ảnh hưởng đến uy tín của DN với đối tác, với thị trường hoặc kiện tụng pháp luật, tốt nhất nên có sự thoả thuận về việc chiếm dụng vốn. Rõ ràng khi người bán cho mua chịu nghĩa là họ phải đối mặt với rủi ro không có khả năng thu hồi nợ. Do vậy, chỉ có những doanh nghiệp chứng tỏ được tình hình tài chính lành mạnh, có khả năng trả nợ mới được hưởng khoản tín dụng thương mại này.
Các khoản phải nộp Nhà nước: các khoản thuế, lệ phí phải nộp Nhà nước nhưng chưa phải nộp hoặ