Đề tài Tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá của HS THPT bằng hệ thống bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học líp 11 – Nâng cao

I. LÝ do chọn đề tài Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục đào tạo là một trong những trọng tâm quan trọng của sự phát triển. Nghị quyết đại hội lần thứ X của Đảng ta đã chỉ rõ là: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngò giáo viên (GV) và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo độc lập suy nghĩ của học sinh,.”. Điều 28 Luật Giáo dục nước ta (2005) còng nhấn mạnh: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tù giác, chủ động sáng tạo của học sinh (HS), phù hợp với đặc điểm của từng líp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thó học tập cho HS”. Mét trong những định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy đề cập đến định hướng đổi mới công việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS, từ hình thức đến công cụ, đặc biệt chú trọng tối đa khả năng tự kiểm tra, đánh giá của người học, bởi người học là một trung tâm quan trọng của hoạt động dạy và học ở nhà trường. Trong vài năm gần đây, đồng thời với việc áp dụng chương trình và sách giáo khoa mới, ở các trường phổ thông đã và đang thực hiện tích cực việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới cách thức, nội dung kiểm tra, đánh giá. Việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá thực hiện theo định hướng: Tăng cường kiểm tra đánh giá bằng việc sử dụng kiểm tra trắc nghiệm khách quan (TNKQ) kết hợp với trắc nghiệm tự luận (TNTL) trên cơ sở nghiên cứu những ưu, nhược điểm của từng loại trắc nghiệm để sử dụng đạt mục đích dạy học của bộ môn, từng líp học,. trong quá trình dạy học, và đã bước đầu khuyến khích HS tìm sách tham khảo tự củng cố kiến thức. Cách thức thi cử hiện nay ở các kì thi quan trọng như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học thường sử dụng thi 100% TNKQ; TNTL thường chỉ chiếm một phần nhỏ trong các bài kiểm tra đánh giá. Trên thị trường sách tham khảo về bài tập Hoá học có rất nhiều, nhưng HS không biết lùa chọn loại sách nào giúp tăng cường khả năng tự kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng thật là hiệu quả. Đáp ứng nhu cầu đó, cũng như để giúp các em HS THPT cọ sát với hình thức thi trắc nghiệm qua các đợt thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và thi tuyển Đại học, chúng tôi đã chọn đề tài: “Tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá của HS THPT bằng hệ thống bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học líp 11 – Nâng cao” – Phần Hoá học vô cơ. II. Mục đích nghiên cứu Sử dông bộ đề kiểm tra đáp ứng được mục đích, yêu cầu theo chuẩn kiến thức kĩ năng, đặc biệt là nêu được phương pháp cho HS sử dụng bộ đề nhằm tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng học tập môn Hoá học của HS THPT.

doc38 trang | Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1709 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá của HS THPT bằng hệ thống bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học líp 11 – Nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU I. LÝ do chọn đề tài Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục đào tạo là một trong những trọng tâm quan trọng của sự phát triển. Nghị quyết đại hội lần thứ X của Đảng ta đã chỉ rõ là: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngò giáo viên (GV) và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo độc lập suy nghĩ của học sinh,...”. Điều 28 Luật Giáo dục nước ta (2005) còng nhấn mạnh: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tù giác, chủ động sáng tạo của học sinh (HS), phù hợp với đặc điểm của từng líp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thó học tập cho HS”. Mét trong những định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy đề cập đến định hướng đổi mới công việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS, từ hình thức đến công cụ, đặc biệt chú trọng tối đa khả năng tự kiểm tra, đánh giá của người học, bởi người học là một trung tâm quan trọng của hoạt động dạy và học ở nhà trường. Trong vài năm gần đây, đồng thời với việc áp dụng chương trình và sách giáo khoa mới, ở các trường phổ thông đã và đang thực hiện tích cực việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới cách thức, nội dung kiểm tra, đánh giá. Việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá thực hiện theo định hướng: Tăng cường kiểm tra đánh giá bằng việc sử dụng kiểm tra trắc nghiệm khách quan (TNKQ) kết hợp với trắc nghiệm tự luận (TNTL) trên cơ sở nghiên cứu những ưu, nhược điểm của từng loại trắc nghiệm để sử dụng đạt mục đích dạy học của bộ môn, từng líp học,... trong quá trình dạy học, và đã bước đầu khuyến khích HS tìm sách tham khảo tự củng cố kiến thức. Cách thức thi cử hiện nay ở các kì thi quan trọng như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học thường sử dụng thi 100% TNKQ; TNTL thường chỉ chiếm một phần nhỏ trong các bài kiểm tra đánh giá. Trên thị trường sách tham khảo về bài tập Hoá học có rất nhiều, nhưng HS không biết lùa chọn loại sách nào giúp tăng cường khả năng tự kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng thật là hiệu quả. Đáp ứng nhu cầu đó, cũng như để giúp các em HS THPT cọ sát với hình thức thi trắc nghiệm qua các đợt thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và thi tuyển Đại học, chúng tôi đã chọn đề tài: “Tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá của HS THPT bằng hệ thống bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học líp 11 – Nâng cao” – Phần Hoá học vô cơ. II. Mục đích nghiên cứu Sử dông bộ đề kiểm tra đáp ứng được mục đích, yêu cầu theo chuẩn kiến thức kĩ năng, đặc biệt là nêu được phương pháp cho HS sử dụng bộ đề nhằm tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng học tập môn Hoá học của HS THPT. III. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu lÝ luận và thực tiễn đánh giá, kiểm tra kết quả học tập môn Hoá học của HS THPT. Cụ thể: 1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng môn Hoá học, các yêu cầu về kĩ thuật xây dựng câu hỏi (TNKQ và TNTL) xây dùng bộ đề kiểm tra kiến thức kĩ năng môn Hoá học. 2. Xây dùng bộ đề kiểm tra kiến thức kĩ năng hoá học líp 11 nâng cao phần vô cơ. 3. Sử dụng bộ đề đối với các líp thực nghiệm, trên cơ sở đó so sánh, đối chiếu với các líp đối chứng để đánh giá độ tin cậy, độ khó và độ phân biệt của bộ đề, kịp thời chỉnh sửa các câu hỏi chưa phù hợp, hoàn chỉnh bộ đề. IV. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu Từ thực tiễn sử dụng bộ đề trắc nghiệm này ở 3 chương: chương 1 (Sự điện li), chương 2 (Nhóm nitơ), chương 3 (Nhóm cacbon) môn Hoá học líp 11 – Nâng cao ở trường THPT Liên Hà (Đông Anh, Hà Nội), trường THPT Nhân Chính (Hà Nội) trong học kì I năm học 2008 – 2009 mà rót ra những kết luận của bản Luận văn về hình thức, khả năng, kết quả tự kiểm tra, đánh giá kĩ năng Hoá học ở chương trình líp 11, nâng cao. 1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình kiểm tra kết quả dạy học hoá học ở trường THPT líp 11 (phần Hoá học vô cơ) – Nâng cao. 2. Đối tượng nghiên cứu: Tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá của HS THPT bằng hệ thống bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học líp 11 – Nâng cao (Hoá học vô cơ). V. Giả thuyết khoa học Nếu xây dựng được một hệ thống bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng Hoá học líp 11 đảm bảo được yêu cầu của đề kiểm tra với chất lượng tốt, nếu GV và HS sử dông một cách triệt để, thường xuyên và tự giác thì bộ đề sẽ góp phần tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS một cách hiệu quả. VI. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành làm đề tài này, chóng tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau đây: 1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận – Nghiên cứu các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài: như các phương pháp kiểm tra, đánh giá, đi sâu về phương pháp kiểm tra TNKQ. – Nghiên cứu nội dung, cấu trúc chương trình, phân phối chương trình, chuẩn kiến thức, kĩ năng Hoá học, sách giáo khoa, sách giáo viên Hoá học líp 11 – THPT cơ bản và nâng cao; đi sâu vào phần Hoá học vô cơ nâng cao. 2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn – Điều tra cơ bản: Tìm hiểu thực tiễn dạy học môn Hoá học líp 11 nhằm phát hiện những khó khăn của việc kiểm tra đánh giá. Trao đổi kinh nghiệm với các thầy cô có nhiều kinh nghiệm trong dạy học Hoá học. – Thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính khả thi, hiệu quả và chất lượng của bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học. Đánh giá tác dụng của việc áp dụng của bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học. 3. Phương pháp sử dụng Toán Thống kê Áp dụng một số tham số đặc trưng trong Toán Thống kê để xử lí kết quả thực nghiệm sư phạm. VII. Điểm mới của luận văn 1. Hệ thống hoá cơ sở lí luận về phương pháp kiểm tra đánh giá và vấn đề đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá. 2. Tuyển chọn và xây dựng bộ đề kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng hoá học líp 11 – nâng cao phần Hoá học vô cơ để HS tự kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng hoá học sau mỗi bài học, mỗi chương. 3. Tuyển chọn và xây dựng ngân hàng đÒ (đề nguồn). VIII. Cấu tróc luận văn Ngoài phần Mở đầu, luận văn gồm Nội dung nghiên cứu với 3 chương sau: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài Chương 2: Hệ thống bộ đề tự kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng môn Hoá học líp 11, nâng cao (phần Hoá học Vô cơ) Chương 3: Thực nghiệm sư phạm. Kết luận. Tài liệu tham khảo. Phụ lục. Nội dung nghiên cứu Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh 1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá Kiểm tra, đánh giá là giai đoạn kết thóc của một quá trình dạy học, nhằm xác định khi kết thúc một giai đoạn trọn vẹn của một quá trình dạy học, mục đích dạy học đã đạt được đến mức độ nào, kết quả học tập của HS đạt đến đâu so với mong muốn. Qua kiểm tra, đánh giá, người GV nhận biết được mình đã thành công hay chưa thành công ở chỗ nào; người học cũng nhận biết được mình đã thu hoạch được gì, mức thu hoạch trong quá trình học tập ra sao (từ nhận biết, thông hiểu đến vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá), kĩ năng biết làm và làm một cách thành thạo những điều đã học [18]. Vị trí của kiểm tra – đánh giá trong quá trình dạy học:  1.1. Kiểm tra Kiểm tra là theo dõi sự tác động của người kiểm tra đối với người học nhằm thu được những thông tin cần thiết cho việc đánh giá. Trong lí luận dạy học, kiểm tra là giai đoạn kết thúc của quá trình dạy học, đảm nhận một chức năng lí luận dạy học cơ bản, chủ yếu không thể thiếu được của quá trình này. Kiểm tra có vai trò liên hệ nghịch trong quá trình dạy học, nhằm mục đích biết những thông tin, kết quả về quá trình dạy của thầy và quá trình học của trò, từ đó có những quyết định cho sự điều khiển tối ưu của cả thầy và trò. Kiểm tra – đánh giá nhằm khảo sát khả năng của người học về môn học mà điểm số các bài khảo sát là những số đo đo lường khả năng học tập của HS. Nếu việc kiểm tra và đánh giá một cách nghiêm túc, thường xuyên và công bằng với kĩ thuật cao và đạt kết quả tốt thì người học sẽ học tốt hơn. 1.2. Đánh giá Đánh giá kết quả học tập là đo lường mức độ đạt được của người học về các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học. Mô tả một cách định tính và định lượng: tính đúng đắn, tính chính xác, tính vững chắc của kiến thức, tính đầy đủ, mối liên hệ của kiến thức với đời sống, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, mức độ thông hiểu, khả năng diễn đạt bằng lời nói, bằng văn viết, bằng chính ngôn ngữ chuyên môn của người học,… và thái độ của người học trên cơ sở phân tích các thông tin phản hồi từ việc quan sát, kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, đối chiếu với các chỉ tiêu, yêu cầu dự kiến, mong muốn đạt được của môn học. Đánh giá kết quả học tập của người học là một quá trình phức tạp và công phu. Nếu thực hiện chu đáo, chuẩn xác thì việc đánh giá càng có nhiều thuận lợi và có độ tin cậy cao. Quy trình đánh giá: gồm 5 bước: 1) Phân tích mục tiêu học tập thành các kiến thức, kĩ năng. 2) Đặt ra các yêu cầu về mức độ đạt được các kiến thức, kĩ năng dùa trên những dấu hiệu có thể đo lường hoặc quan sát được. 3) Tiến hành đo lường các dấu hiệu đó để đánh giá mức độ đạt được về các yêu cầu đặt ra, biểu thị bằng điểm số. 4) Thu thập số liệu đánh giá: Phân tích, so sánh các thông tin nhận được với các yêu cầu đề ra rồi đánh giá, xem xét kết quả học tập của người học, mức độ thành công của phương pháp giảng dạy của thầy,… để từ đó có thể cải tiến, khắc phục nhược điểm. 5) Trong đánh giá phải đảm bảo nguyên tắc: chính xác, vừa sức, bám sát yêu cầu của chương trình học. 2. Chức năng của kiểm tra, đánh giá Kiểm tra gồm 3 chức năng: đánh giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh. Ba chức năng này liên kết thống nhất với nhau, thâm nhập vào nhau và bổ sung cho nhau trong quá trình kiểm tra kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của người học. Kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học là phát hiện, củng cố, đào sâu và làm chính xác thêm kiến thức, đồng thời có liên hệ chẽ và phục vụ trực tiếp cho việc học bài mới. Đánh giá với 2 chức năng cơ bản là xác nhận và điều khiển. Xác nhận đòi hỏi độ tin cậy. Điều khiển đòi hỏi tính hiệu lực, phát hiện và điều chỉnh lệch lạc, để từ đó đề ra được các biện pháp xử lí. 3. Những yêu cầu về khối lượng và chất lượng kiến thức, kĩ năng kĩ xảo cần kiểm tra, đánh giá môn Hoá học – Việc kiểm tra kết quả học tập về Hoá học của HS cần chú ý đến: + Khối lượng kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo. + Chất lượng kiểm tra kiến thức. + Cách trình bày kiến thức. Khối lượng kiến thức được xác định trong chương trình quốc gia. Các SGK đạt tiêu chuẩn giúp cho việc cụ thể hoá các yêu cầu này. – Các kiến thức kĩ năng, kĩ xảo hoá họcđược kết hợp lại thành các nhóm sau đây: + Các khái niệm, định luật hoá học cơ bản. + Các lí thuyết hoá học. + Ngôn ngữ hoá học. + Kiến thức về các chất. + Kiến thức về các nguyên tè hoá học. + Kĩ năng và kĩ xảo giải các bài tập. + Kĩ năng và kĩ xảo làm thí nghiệm. + Kĩ xảo nói và viết. – Khi đánh giá chất lượng về kiến thức cần chú ý đến tính chính xác khả năng nhận thức, tính hệ thống, tính cụ thể, tính vững chắc, khuynh hướng tư tưởng chính trị, mối liên hệ với đời sống và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa cộng sản. + Tính chính xác và khả năng nhận thức: HS không chỉ biết tính chất các chất, các định luật và lí thuyết hoá học, mà còn có thÓ giải thích được các hiện tượng đã học, biết minh họa các định luật và lí thuyết bằng tư liệu cụ thể. + Tính hệ thống: các kiến thức đó ở HS gắn bó không tách rời nhau. + Tính cụ thể: HS phải hình dung được rõ ràng những tính chất lí và hoá học của các chất đã học và sự phụ thuộc tính chất của chúng vào cấu tạo. + Khi kiểm tra tính vững chắc của kiến thức cần chó ý đến kiến thức của HS về cái cơ bản đã học gắn hữu cơ với kiến thức đang học. + Khuynh hướng tư tưởng chính trị của kiến thức là cơ sở thế giới quan cộng sản chủ nghĩa của HS, khi trả lời các bài tập phải giải thích một cách duy vật những hiện tượng và quá trình được học, giải thích vai trò của hoá học trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. – Việc chuẩn bị cho kiểm tra kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo Việc kiểm tra kiến thức kĩ năng kĩ xảo là một bộ phận của quá trình dạy học, nên tất nhiên GV chuẩn bị các giê học phải bao gồm việc chuẩn bị kiểm tra kiến thức. Khi lập kế hoạch hàng năm, GV cần lập kế hoạch cho tiến độ bài mới và cả kế hoạch kiểm tra và bài thực hành, xemina,… Kĩ năng, kĩ xảo HS cần lĩnh hội trong quá trình học các mục như: – Kĩ năng nhận biết các chất – Kĩ năng thực hành – Kĩ năng sử dụng sơ đồ và mô hình – Kĩ năng giải các bài tập tính toán: + Tính lượng chất có thể điều chế được từ chất ban đầu có chứa tạp chất. + Tính hiệu suất phần trăm chất thu được sau phản ứng so với lí thuyết. + Tính lượng một trong các sản phẩm của phản ứng nếu một trong các chất ban đầu lấy dư. – Các tiêu chí của kiểm tra, đánh giá: Phải đảm bảo về tính toàn diện, độ tin cậy, tính khả thi, yêu cầu phân hoá, và phải đảm bảo hiệu quả cao. 4. Hình thức kiểm tra đánh giá – Theo lí luận dạy học, việc kiểm tra kiến thức được phân chia thành các dạng: kiểm tra sơ bộ; kiểm tra hàng ngày; kiểm tra định kì; kiểm tra kết thúc. – Về hình thức kiểm tra có: kiểm tra miệng; kiểm tra viết (15 phót, 45 phót); kiểm tra thực hành thí nghiệm. Tóm tắt các hình thức tổ chức kiểm tra, đánh giá theo các bảng 1 và 2 [18]. Bảng 1.1: Những công cụ để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập  Bảng 1.2: Phân loại các kiểu test kiểm tra  Kiểm tra viết thường dùng hai loại câu hái: + Câu hỏi trắc nghiệm khách quan (TNKQ): dùng cho cả hình thức kiểm tra 15 phót và 45 phót. + Câu hỏi trắc nghiệm tự luận (TNTL): thích hợp cho các bài kiểm tra 45 phót. Nội dung của luận văn sử dụng cho hình thức tự kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng của HS nên sử dụng các bài kiểm tra viết là hợp lí. II. Cơ sở lí luận về việc xây dựng các câu hỏi TNKQ và TNTL 1. Câu hái TNKQ 1.1. Khái niệm TNKQ là phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS bằng hệ thống những câu hỏi trắc nghiệm mà hệ thống cho điểm hoàn toàn khách quan, không phụ thuộc vào người chấm. Bài trắc nghiệm được chấm điểm bằng cách đếm số lần người làm trắc nghiệm đã chọn được những câu trả lời đúng trong sè các câu trả lời đã được cung cấp. 1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp TNKQ 1.2.1. Ưu điểm Có thể kiểm tra được nhiều kiến thức đối với nhiều HS trong một thời gian ngắn; đề thi bao quát được phần lớn nội dung học tập buộc HS phải nắm được tất cả các nội dung kiến thức đã học, tránh được tình trạng học tủ, học lệch và HS không thể chuẩn bị tài liệu để quay cóp. Giúp GV tiết kiệm thời gian và công sức chấm bài. Việc tính điểm rõ ràng, cụ thể nên thể hiện tính khách quan, minh bạch. Khuyến khích khả năng phân tích, hiểu đúng ý người khác; gây hứng thó và tích cực học tập của HS. Áp dụng được công nghệ mới vào việc soạn thảo các đề thi, trong chấm thi và kết quả bài thi, hạn chế hiện tượng quay cóp và trao đổi bài. Sử dụng được nhiều lần. Việc chấm điểm khách quan. Phù hợp với cuộc sống hiện đại: Cần quyết đoán nhanh, chính xác. 1.2.2. Nhược điểm TNKQ chỉ cho biết kết quả suy nghĩ của HS mà không cho biết quá trình suy nghĩ, sự nhiệt tình, hứng thó của HS đối với nội dung kiểm tra. HS có thể chọn đúng ngẫu nhiên. TNKQ không cho phép kiểm tra năng lực diễn đạt (viết hoặc dùng lời); tư duy sáng tạo và khả năng lập luận của HS. Vì vậy với cấp học càng cao thì khả năng áp dụng của hình thức này càng bị hạn chế. Việc soạn thảo các câu hái TNKQ tèn thời gian, công sức. TNKQ không thể kiểm tra được kĩ năng thực hành thí nghiệm mà chỉ kiểm tra được kiến thức về kĩ năng thực hành thí nghiệm. Phương pháp TNKQ vẫn không hoàn toàn khách quan vì phụ thuộc vào việc soạn thảo và định điểm cho câu hỏi của người soạn. 1.3. Phân loại các phương pháp TNKQ. Câu hỏi TNKQ có nhiều câu để lùa chọn Hiện nay đa số các nhà giáo dục thống nhất chia các câu hỏi TNKQ làm 5 dạng chính sau: + Dạng nhiều lùa chọn + Dạng câu đúng – sai + Dạng ghép đôi + Dạng câu điền khuyết hay trả lời ngắn + Câu hỏi bằng hình vẽ Trong tình hình thực tế hiện nay, việc kiểm tra và thi chủ yếu sử dụng hình thức TNKQ dạng nhiều lùa chọn, vì vậy trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ đi sâu phân tích dạng câu hỏi TNKQ dạng nhiều lùa chọn. 1.3.1. Khái niệm câu hái TNKQ có nhiều câu để lùa chọn Đây là loại câu hỏi thông dụng nhất, được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất. Nó cho phép kiểm tra những trình độ cao hơn về nhận thức, thuận lợi hơn so với các loại câu hỏi trắc nghiệm khác. Câu trắc nghiệm nhiều lùa chọn gồm 2 phần: phần đầu là phần dẫn (có thể là một câu hỏi hay một câu dẫn), phần sau là từ 3 đến 5, thường là 4 hoặc 5 phương án trả lời với kí hiệu là các chữ cái A, B, C, D, E. Trong các phương án đó chỉ có duy nhất một phương án là đúng nhất – gọi là đáp án. Các phương án khác gọi là phương án nhiễu. 1.3.2. Tác dông, ưu điểm và hạn chế – Khi làm bài, HS chỉ việc đánh dấu vào câu trả lời được chọn. Vì vậy có thể kiểm tra nhanh nhiều vấn đề trong một thời gian ngắn; việc chấm bài cũng nhanh. – Độ tin cậy cao hơn khả năng đoán mò hay may rủi Ýt hơn so với các loại câu hái TNKQ khác khi số phương án lùa chọn tăng lên, buộc HS phải xét đoán, phân biệt kĩ trước khi trả lời câu hỏi. – Có tính giá trị tốt vì có thể đo được các khả năng nhớ, áp dụng nguyên lí, định luật, tổng quát hoá của HS hiệu quả. – Việc chấm bài thực sự khách quan. Điểm số của bài TNKQ không phụ thuộc vào chủ quan của người chấm, chữ viết và khả năng diễn đạt của HS. – GV có thể dùng loại câu hỏi này để kiểm tra, đánh giá những mục tiêu dạy học khác nhau như: + Xác định mối tương quan nhân quả. + Nhận biết các điều sai lầm. + Ghép các kết quả hay các điều quan sát được với nhau. + Định nghĩa các khái niệm. + Tìm nguyên nhân của một số sự kiện. + Nhận biết điểm tương đồng hay khác biệt giữa 2 hay nhiều vật. + Xác định nguyên lí hay ý niệm tổng quát từ những sự kiện. + Xác định thứ tự hay cách sắp đặt giữa nhiều vật. + Xét đoán vấn đề đang được tranh luận dưới nhiều quan điểm. Hạn chế của hình thức kiểm tra này: – Đối với người soạn: Loại câu này khó soạn, tèn thời gian soạn đề, soạn câu hỏi và phải tìm được câu trả lời đúng nhất, còn các câu nhiễu thì cũng phải hợp lí. Đặc biệt, phải soạn câu hỏi sao cho có thể đo được các mức nâng cao hơn mức độ biết, nhớ và hiểu. Yêu cầu người soạn phải có độ tính toán chính xác cao để đưa ra các đáp án nhiễu phải tương đối sát với đáp án đúng, tránh hiện tượng HS không cần tính toán hoặc không cần tư duy nhiều vẫn có thể lùa chọn được đáp án đúng. – Đối với HS: Với những HS thông minh, có óc sáng tạo, tư duy tốt có thể tìm ra những câu trả lời hay hơn đáp án. – Câu hỏi nhiều lùa chọn có thể không đo được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, sáng tạo một cách hiệu nghiệm bằng loại câu TNTL. – Tốn kém giấy mực để in và mất nhiều thời gian để HS đọc nội dung câu hỏi. 1.3.3. Những lưu ý khi soạn câu hỏi nhiều lùa chọn Câu hỏi nhiều lùa chọn có thể dùng để thẩm định trí năng ở mức biết, vận dụng, phân tích, tổng hợp hay ngay cả khả năng phán đoán cao hơn. Vì vậy khi soạn loại câu hỏi này cần lưu ý lùa chọn những ý tưởng quan trọng và viết ra những ý tưởng Êy một cách rõ ràng để làm căn bản cho việc soạn thảo các câu hỏi trắc nghiệm. Cách thiết kế câu có nhiều lùa chọn: Cấu tạo của câu gồm: – Phần câu viết chưa đầy đủ. – Phần chọn: Gồm 4 phương án. Trong đó chỉ có một phương án đáp ứng yêu cầu đề ra, thường là phương án đúng (có thể có chọn câu sai). Các phương án khác được gọi là nhiễu. Trước mỗi phương án thường là các chữ A, B, C, D. – Phần yêu cầu: Nêu ngắn gọn yêu cầu đặt ra. Yêu cầu trả lời: Chỉ chọn một phương án phù hợp để có câu đúng hoặc đúng nhất (hoặc câu sai) trong sè 4 phương án chọn bằng cách đánh dấu, khoanh tròn hoặc tô tròn vào một chữ đứng trước phương
Tài liệu liên quan