Đề tài Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ

Trong bối cảnh của các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển, muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhằm đạt tới mục tiêu tăng trưởng dự kiếnthì nhu cầu vốn đầu tư luôn là sự mâu thuẫn giữa khả năng tích luỹ có hạn với yêu cầu đầu tư lại lớn. Do vậy việc huy động vốn vay nước ngoài là vấn đề tất yếu. Đối với Việt Nam chúng ta, để đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, bằng con đường duy nhất là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong hoàn cảnh là một quốc gia được xếp vào nhóm các nước nghèo nhất trên thế giới bởi kết quả của một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ dành độc lập, tự do cho đất nước thì sự bất cập giữa yêu cầu đầu tư với khả năng tích luỹ là điều dễ thấy. Mặc dù những năm qua khi bước vào giai đoạn phát triển kinh tế nhằm nhanh chóng hoà nhập với các nước trong khu vực, quan điểm phát huy tối đa nội lực của Đảng và Nhà nước ta cũng không thể đáp ứng được yêu cầu đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Do vậy nguồn vốn vay nợ nước ngoài (mà chủ yếu là các khoản vay của Chính phủ) tuy không là yếu tố quyết định song là cần thiết như Đảng và Nhà nước ta đã xác định là “quan trọng”. Ngân hàng Nhà nước tuy không trực tiếp quản lý chính với các khoản vay của Chính phủ nhưng với vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý vay nợ của Chính phủ như hiện naylà điều chưa hợp lý. Trên phạm vi rộng, công tác vay và trả nợ nước ngoài hiện nay còn rất nhiều những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Chỉ xét riêng dưới góc độ là Ngân hàng Nhà nước, cơ chế vay và trả nợ nước ngoài đã bộc lộ khá nhiều những tồn tại, chưa phù hợp với yêu cầu đối với công tác quản lý. Sự chồng chéo về tổ chức, sự trùng lặp về nội dung quản lý,. đã gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý, rất có thể ảnh hưởng tới uy tín của Chính phủ trên thị trường quốc tế. Đây cũng là lý do mà em chọn đề tài “Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ”. * Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về cơ chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ hiện nay, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu về lĩnh vực này. Bài viết này xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn đề tồn tại dưới góc độ quản lý của Ngân hàng Nhà nước. * Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để phân tích những cơ chế, tồn tại trong quản lý vay nợ nước ngoài của Chính phủ, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại đó. * Bài viết này được trình bày làm 3 chương: - Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý nợ nước ngoài. - Chương II: Thực trạng quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ trong thời gian qua. - Chương III: Những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại.

doc67 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời nói đầu CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI. I/ KHÁI NIỆM VÀ PHÂN NỢ NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm nợ nước ngoài 2. Phân loại nợ nước ngoài 2.1 Nợ nước ngoài của Chính phủ 2.2 Nợ nước ngoài của doanh nghiệp II/ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC VAY NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VAY, TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI 1. TÝnh tÊt yÕu cña viÖc vay nî n­íc ngoµi 2. Sù cÇn thiÕt t¨ng c­êng qu¶n lý ho¹t ®éng vay, tr¶ nî n­íc ngoµi III/ MỤC TIÊU QUẢN LÝ VAY NỢ TRONG THỜI GIAN TỚI IV/ KINH NGHIỆM VAY NỢ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1. Kinh nghiệm của Hàn quốc 2. Kinh nghiệm của Mêhicô 3. Kinh nghiệm của Thái lan CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VAY, TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ TRONG THỜI GIAN QUA I/ QUAN HỆ TÍN DỤNG CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 1.Quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ tín dụng của Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế 2. Khái quát cơ chế tín dụng của các Tổ chức Tài chính Quốc tế 2.1. Thủ tục giải ngân (rút vôn) 2.2 Các thủ tục, chứng từ để thực hiện việc giải ngân. II/ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC KHOẢN VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ 1. Cơ chế rút vốn các khoản vay của Chính phủ 1.2 Thể thức Ngân hàng Nhà nước trực tiếp quản lý 1.2 Thể thức Ngân hàng Nhà nước không trực tiếp quản lý 2. Cơ chế sử dụng và quản lý vốn vay nước ngoài của Chính phủ 3. Cơ chế trả nợ vốn vay III / KẾT QUẢ THAM GIA QUẢN LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC QUẢN LÝ VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ TRONG THỜI GIAN QUA 1. Kết quả tham gia quản lý của Ngân hàng Nhà nước 1.1 Về vay nợ 1.2 Về trả nợ 2. Đánh giá kết quả tham gia quản lý 2.1 Về cơ chế nhận nợ rút vốn 2.2 Về cơ chế kiểm soát đơn rút vốn 2.3 Về cơ chế hạch toán 2.4 Đối với thể thức hoàn vốn 2.5 Về việc thực hiện nghĩa vụ đối với các Tổ chức Tài chính Quốc tế CHƯƠNG III : NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI I/ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ 1. Đối với cơ chế nhận nợ, rút vốn 2. Đối với cơ chế hạch toán 3. Thành lập Hội đồng quản lý nợ nước ngoài II/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Kết luận Phụ lục Danh mục tài liệu tham khảo LỜI NÓI ĐẦU Trong bối cảnh của các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển, muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhằm đạt tới mục tiêu tăng trưởng dự kiếnthì nhu cầu vốn đầu tư luôn là sự mâu thuẫn giữa khả năng tích luỹ có hạn với yêu cầu đầu tư lại lớn. Do vậy việc huy động vốn vay nước ngoài là vấn đề tất yếu. Đối với Việt Nam chúng ta, để đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, bằng con đường duy nhất là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong hoàn cảnh là một quốc gia được xếp vào nhóm các nước nghèo nhất trên thế giới bởi kết quả của một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ dành độc lập, tự do cho đất nước thì sự bất cập giữa yêu cầu đầu tư với khả năng tích luỹ là điều dễ thấy. Mặc dù những năm qua khi bước vào giai đoạn phát triển kinh tế nhằm nhanh chóng hoà nhập với các nước trong khu vực, quan điểm phát huy tối đa nội lực của Đảng và Nhà nước ta cũng không thể đáp ứng được yêu cầu đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Do vậy nguồn vốn vay nợ nước ngoài (mà chủ yếu là các khoản vay của Chính phủ) tuy không là yếu tố quyết định song là cần thiết như Đảng và Nhà nước ta đã xác định là “quan trọng”. Ngân hàng Nhà nước tuy không trực tiếp quản lý chính với các khoản vay của Chính phủ nhưng với vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý vay nợ của Chính phủ như hiện naylà điều chưa hợp lý. Trên phạm vi rộng, công tác vay và trả nợ nước ngoài hiện nay còn rất nhiều những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Chỉ xét riêng dưới góc độ là Ngân hàng Nhà nước, cơ chế vay và trả nợ nước ngoài đã bộc lộ khá nhiều những tồn tại, chưa phù hợp với yêu cầu đối với công tác quản lý. Sự chồng chéo về tổ chức, sự trùng lặp về nội dung quản lý,... đã gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý, rất có thể ảnh hưởng tới uy tín của Chính phủ trên thị trường quốc tế. Đây cũng là lý do mà em chọn đề tài “Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ”. * Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về cơ chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ hiện nay, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu về lĩnh vực này. Bài viết này xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn đề tồn tại dưới góc độ quản lý của Ngân hàng Nhà nước. * Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để phân tích những cơ chế, tồn tại trong quản lý vay nợ nước ngoài của Chính phủ, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại đó. * Bài viết này được trình bày làm 3 chương: - Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý nợ nước ngoài. - Chương II: Thực trạng quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ trong thời gian qua. - Chương III: Những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI I/ KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI NỢ NƯỚC NGOÀI 1/ Khái niệm nợ nước ngoài Vay nợ nước ngoài hay tín dụng nước ngoài là quan hệ tín dụng phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa bên vay ở trong nước và bên cho vay ở nước ngoài . Theo khái niệm thông thường nhất, nợ nước ngoài là tổng số tiền nợ mà quốc gia đi vay có trách nhiệm và ràng buộc phải trả, thanh toán cho một hay nhiều quốc gia khác hay có thể là các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài. Gần đây một nhóm tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài bao gồm đại diện của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã thoả thuận và đưa ra một định nghĩa chung về nợ nước ngoài như sau: “Nợ nước ngoài tính gộp tại một thời điểm nhất định tương ứng với hạn mức cam kết hợp đồng đang có hiệu lực và đã tạo ra việc người cư trú của một nước chuyển vốn cho người không cư trú bao gồm nghĩa vụ phải trả lại gốc cùng với lãi “ Ở Việt nam, Nghi định 58/ CP ban hành ngày 30/8/1998 thống nhất một số khái niệm sau : - Vay nước ngoài là những khoản vay ngắn, trung hoặc dài ( có lãi hoặc không có lãi ) các khoản bảo lãnh và các hình thức vay khác như việc thỏa thuận hoãn nợ hoặc các hình thức vay mới trả cũ với các chủ nợ nước ngoài . -Vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay do Chính phủ vay và cam kết thực hiện nghĩa vụ với nước ngoài hoặc các khoản vay do Chính phủ uỷ quền cho các doanh nghiệp vay hộ, được Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh. *Khái niệm chủ nợ và con nợ . Chủ nợ (hay nói cách khác là bên cho vay) là các tổ chức Tài chính (như Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng Thế giới WB ...), các chính phủ hay các Ngân hàng Thương mại, các Công ty, tư nhân cho một quốc gia nào đó cho vay theo những thoả thuận ( như về thời hạn trả, về lãi suất...) nhất định. Ngược lại, một Chính phủ hay một doanh nghiệp của một quốc gia đi vay các tổ chức Tổ chức Tài chính Quốc tế, các quốc gia khác theo những thoả thuận nhất định thì gọi là con nợ (hay còn gọi là bên vay). 2/ Phân loại nợ nước ngoài. Để phát huy hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các khoản nợ vay nước ngoài phù hợp với đối tượng sử dụng người ta phân chia nợ nước ngoài ra làm hai loại: Nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ nước ngoài của doanh nghiệp. 2.1 Nợ nước ngoài của Chính phủ. Nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ bao gồm vốn vay từ Chính phủ các nước, các tổ chức tài chính như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)... Đối với các khoản vốn vay này, các Bộ, Ngành, địa phương và doanh nghiệp không được thoả thuận hoặc ký các hiệp định, hợp đồng vay nếu không được Chính phủ uỷ quyền. Việc sử dụng vốn vay nước ngoài và chi trả nợ nước ngoài của Chính phủ phải được cân đối vào kế hoạch thu, chi ngân sách hàng năm . Tất cả các khoản vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ phải được tập trung quản lý qua Bộ Tài chính, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xem xét và tổng hợp kế hoạch tổng hạn mức vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tham khảo các cơ quan có liên quan để trình thủ tướng Chính phủ phê duyệt cùng với kế hoạch thu chi ngân sách hàng năm. Vấn đề đặt ra là dựa vào cơ sở nào để hàng năm có thể lập ra kế hoạch tổng hạn mức vay nợ của Chính phủ? Vốn vay của Chính phủ trước hết được sử dụng cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước. Đó là các dự án đầu tư thuộc cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và các dự án khác có khả năng hoàn vốn hoặc không có khả năng hoàn vốn. Đối với những dự án đầu tư không có khả năng hoàn vốn (các dự án đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, y tế v.v...), vốn được đầu tư theo chế độ cấp phát hiện hành. Ngược lại một số dự án có khả năng hoàn vốn (cung cấp nước sinh hoạt, cầu cảng, điện dân dụng v.v...) sẽ được Chính phủ đầu tư theo cơ chế cho vay lại. Vốn vay của Chính phủ có thể phục vụ cho nhu cầu Ngân sách Nhà nước thực hiện theo chế độ quản lý vốn Ngân sách Nhà nước hiện hành. Khoản vốn vay này bao gồm cả các khoản do Chính phủ uỷ quyền cho các doanh nghiệp nhà nước vay hộ Ngân sách Nhà nước sẽ do Bộ Tài chính trực tiếp lập kế hoạch vay, tham khảo ý kiến của các cơ quan và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.Trong trường hợp nguồn vốn vay bằng hàng hoá thì căn cứ vào các hợp đồng, hiệp định đã ký với nước ngoài, Bộ Tài chính cùng Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Thương mại và Bộ ngành chủ quản xem xét để giao cho các đơn vị đầu mối đứng ra nhập hàng, bán và nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra còn hình thức vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp không được Chính phủ uỷ quyền nhưng được Chính phủ bảo lãnh (việc bảo lãnh vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp được thực hiện theo quy chế bảo lãnh vốn vay nước ngoài của Chính phủ). Trường hợp vay cho đầu tư xây dựng cơ bản (trừ vốn góp liên doanh), doanh nghiệp phải tuân thủ theo trình tự lập và xét duyệt dự án đầu tư xây dựng cơ bản hiện hành. Mọi khoản vay nước ngoài của Chính phủ, bao gồm trực tiếp vay, uỷ quyền cho các doanh nghiệp vay hộ v.v... đều phải được quản lý thông qua hạn mức vay nợ nước ngoài của Chính phủ. Kế hoạch tổng hạn mức vay nợ nước ngoài hàng năm được xây dựng trên cơ sở nhu cầu thực tế về sử dụng vốn vay nước ngoài trong năm kế hoạch được xây dựng trên các căn cứ chủ yếu sau đây: - Căn cứ vào số vốn vay cho các dự án đã được ký kết trong các hợp đồng, hiệp định vay vốn với nước ngoài do Chính phủ ký kết hay uỷ quyền cho các doanh nghiệp ký kết hay có sự bảo lãnh của Chính phủ. - Căn cứ vào nhu cầu vốn vay nước ngoài cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản dự kiến bắt đầu thực hiện từ năm kế hoạch đã có đối tác nước ngoài nhưng chưa ký kết được hợp đồng ngay. - Cân đối thu, chi Ngân sách Nhà nước năm kế hoạch và các dự kiến nhu cầu vay vốn nước ngoài để bù đắp thiếu hụt ngân sách; - Và cuối cùng là căn cứ vào khả năng trả nợ nước ngoài trong năm kế hoạch được Bộ Tài chính xem xét. 2.2 Nợ nước ngoài của doanh nghiệp dưới hình thức tự vay tự trả. Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ của Chính phủ tức là các khoản do Chính phủ vay và cam kết thực hiện nghĩa vụ với nước ngoài hoặc các khoản vay Chính phủ uỷ quyền cho các doanh nghiệp vay, được Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh. Song các doanh nghiệp tầm cỡ đủ lớn để được người cho vay tin tưởng mà không cần sự bảo lãnh của nhà nước, có thể vay trực tiếp theo hình thức tự vay tự trả. Các doanh nghiệp này thường là các Ngân hàng, các xí nghiệp ... có các hoạt động quốc tế (luyện kim, vận tải biển, hàng không, du lịch...). Các doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo hình thức đó gọi là nợ của doanh nghiệp. Cho vay của các Tổ chức Tài chính Quốc tế phần lớn dành cho Nhà nước hoặc dạng được Nhà nước bảo lãnh. Đối với các khoản cho vay song phương của Nhà nước cũng chủ yếu là như vậy. Ngược lại các khoản cho vay của các ngân hàng và các công ty tư nhân trong một số trường hợp không được Nhà nước đảm bảo. Chính những nước nợ nhiều nhất của các chủ nợ tư nhân là những nước có thể vay nhiều mà không cần sự bảo lãnh như ở Chi lê, Bờ Biển Ngà và Vênêzuêla với số nợtư nhân chiếm đến 1/4 tổng số nợ dài hạn. Tuy nhiên tình trạng tài chính và sự phát triển kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc các công ty có thể tự vay tự trả cho các chủ nước ngoài hay không? Một công ty hoạt động kém hiệu quả, khả năng trả nợ kém thì sẽ khó có thể vay nợ nước ngoài dưới hình thức trực tiếp tự vay tự trả. Về nguyên tắc thì Chính phủ không can thiệp vào vay nợ của các doanh nghiệp dưới hình thức tự vay tự trả, tuy nhiên mọi nhu cầu vay nợ nước ngoài, ngoài phần vay của Chính phủ thì nhu cầu vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nói chung qua hình thức tự vay tự trả đều phải nằm trong tổng hạn mức vay nợ nước ngoài được Chính phủ xem xét và chấp nhận. II/ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC VAY NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VAY, TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI . 1/ Tính tất yếu của việc vay nợ nước ngoài . Lịch sử phát triển của các nước trên thế giới (nhất là các nước phát triển từ sau đạI chiến thế giới thứ hai tới những năm của thập kỷ 80 và các nước đang phát triển hiện nay ở khu vực Đông á , Mỹ La tinh) đã khẳng định chắc chắn rằng vay nợ nước ngoài là một tất yếu trong tiến trình phát triển. Thật vậy, trong bối cảnh của các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhằm đạt tới mục tiêu tăng trưởng dự kiến thì nhu cầu vốn đầu tư luôn là một vấn đề nan giải bởi nó luôn là sự mâu thuẫn bất cập giữa khả năng tích luỹ có hạn với nhu cầu đầu tư lại lớn. Do vậy, việc huy động vốn nước ngoài là một vấn đề tất yếu. Đối với Việt nam, chúng ta thực hiện phát triển kinh tế trong điều kiện từ một đất nước vừa thoát khỏi hàng chục năm chiến tranh liên miên và trong thế bị bao vây cấm vận của Hoa Kỳ, cùng với một nền kinh tế đặc trưng nông nghiệp lạc hậu vào loại nghèo nhất thế giới. Do vậy, thực hiên công nghiệp hóa, hiện đại hoá là giải pháp duy nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, đồng thời công nghiệp hóa, hiện đại hoá cũng là mục tiêu duy nhất của Đảng và Nhà nước ta để đưa nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế trên thế giới và trong khu vực, là cơ sở để thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hôi trong giai đoạn 2001-2005 là tăng gấp đôi GDP so với năm 1995 và tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 9-10 % thì chúng ta cần một lượng vốn đầu tư khoảng 40-42 tỷ USD, trong khi đó khả năng đáp ứng vốn từ nền kinh tế trong nước theo quy hoạch đầu tư đạt khoảng 45 % (xấp xỉ 20 tỷ USD). Vậy số thiếu hụt lấy từ đâu? Một câu hỏi không dễ trả lời, nhưng chắc chắn phải là nguồn vốn từ bên ngoài thông qua hoạt động vay nợ. 2/ Sự cần thiết tăng cường quản lý hoạt động vay, trả nợ nước ngoài. Để hiểu rõ được vấn đề, trước hết chúng ta hãy xét thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam : Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến 31/12/2001, nợ nước ngoài của Việt Nam bằng ngoại tệ chuyển đổi là 3,6 tỷ đô -la Mỹ và hơn 10 tỷ đồng rúp chuyển nhượng, chiếm 50 % GDP, trong đó 1/3 số nợ của Chính phủ do hậu quả từ thời cơ chế bao cấp để lại. Xét về số tuyệt đối, đây là con số không lớn nhưng là không nhỏ so với thu nhập quốc dân và điều kiện kinh tế của nước ta. Đáng lưu ý hơn là năm 1999,WB căn cứ vào các chỉ tiêu đánh giá mức độ vay nợ của một quốc gia đã xếp Việt Nam vào nhóm các nước mắc nợ trầm trọng trong nhóm các nước có thu nhập thấp. Theo sốliệu này, nợ của Việt Nam so với GDP là 92,1 % và so với xuất khẩu là 282,8 %. Hơn nữa, trong một tương lai gần, khi mà quan hệ của chúng ta với các Tổ chức Tài chính Quốc tế ngày càng thắt chặt, qui mô tín dụng nước ngoài của chúng ta sẽ tăng lên nhiều hơn nữa: Biểu 1. Khuynh hướng tích lũy trong nước ở Việt Nam ,1994-2001 (% của GDP) 1994 1996 1998 2000 2001 2002 khoảng 2005 dự đoán 2010 dự đoán Tích lũy quốc gia 3 13 17 17 17 18 19 22 Tích lũy của Ch. Phủ .a/ -2 1 2 5 6 5 7 8 Tích lũy phi Ch. Phủ .b/ 5 12 15 12 11 13 13 14 Ghi chú: a/Thu ngân sách và viện trợ trừ đi chi thường xuyên (cơ sở tiền mặt). Tích lũy Chính phủ bao gồm cả trung ương và địa phương. b/Tích lũy quốc gia trừ đi tích lũy tổng cộng. Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng Cục Thống Kê. Tỷ lệ tích lũy của Việt Nam khá cao so với các nước có thu nhập thấp khác.Chỉ có Trung Quốc và các nước Nam á gồm Ấn độ, Pakistan và Sri Lanka có tỷ lệ tích lũy cao hơn. Nếu xem xét trong điều kiện của các nứơc Đông á, tỷ lệ tích lũy của Việt Nam khá thấp, nhưng điều đó có thể do nguyên nhân chủ yếu do sự khác biệt về thu nhập. Tỷ lệ tích lũy của Việt Nam đã được nâng lên trong suốt thập kỷ vừa qua,nhưng nỗ lực sẽ hết sức cần thiết để ngăn chặn khuynh hướng giảm gần đây và phục hồi tỷ lệ tăng trưởng tích lũy nhanh, nhằm đạt được mức tăng tỷ lệ tích lũy dự kiến là 20 % GDP vào năm 2005. Mặc dù tích lũy trong nước tăng đáng kể, nhu cầu tài trợ từ bên ngoài của Việt Nam vẫn lớn (Biểu 1). Trong năm 2003, Ngân hàng Thế giới dự tính nhu cầu tài chính bên ngoài là 3,7 tỷ đô -la Mỹ. Với mức tổng dư nợ nước ngoài cao và khả năng trả nợ nước ngoài của Việt Nam trong trung hạn vẫn còn hạn chế, phần lớn nhu cầu tái chính bên ngoài này cần phải ở dưới dạng tài trợ với điều kiện ưu đãI, và cả nguồn vốn FDI nữa. Biểu 2. Nhu cầu tài trợ từ bên ngoài và nguồn. (Tỷ đô-la Mỹ) Thực 2001 Ước tính 2002 2003 Dự 2004 báo 2005 2005-2010 TB năm Nhu cầu tài trợ Thâm hụt cán cân vãnglai 2,6 2,5 2,6 2,9 2,1 3,7 Khấu trừ nợ chính thức trung và dài hạn 0,9 0,5 0,6 0,8 0,8 1,0 Những khoản khác (ròng) -0,3 - - - - - Dự trữ bắt buộc 0,5 0,5 0,4 0,5 0,7 0,7 Tổng số 3,7 3,5 3,7 4,1 4,5 5,4 Nguồn tài trợ Viện trợ không hoàn lại chính thức 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 Vay nợ dài hạn 0,6 1,2 1,5 1,6 1,9 2,3 trong đó: ODA giải ngân 0,4 0,7 0,9 1,1 1,4 1,8 IMF(ròng) 0,2 0,03 0,0 -0,0 -0,0 -0,08 Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1,8 1,9 2,0 2,1 2,1 2,2 Vốn ngắn hạn (ròng) 0,3 0,1 -0,0 0,3 0,4 0,5 Dư nợ quá hạn tồn đọng 0,6 -4,1 - - - - Giảm nợ - 4,1 - - - - Tổng số 3,7 3,5 3,7 4,1 4,5 5,4 Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Thế giới . Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới , trong khuôn khỏ đẩy mạnh cải cách của Chính phủ, tuy có một khối lượng luồng FDI lớn, nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) vẫn đóng một vai trò to lớn và quan tọng , vẫn cần có một nguồn ODA đáng kể để có thể đạt được các mục tiêu phát triển trung hạn. Giải ngân của ODA, kể cả viện trợ không hoàn lại, cần dược tăng từ khoảng 900 triệu đô - la Mỹ lên 1 tỷ đô -la Mỹ trong năm 2003. Mặc dù phần lớn số tiền này sẽ là giải ngân từ những cam kết đã có, mức cam kết mới của Hội Nghị Tài Trợ cần phải tương đương với mức cam kết năm ngoái là 2,4 tỷ đô- la Mỹ. Cần có mức cam kết này để đảm bảo việc xây dựng một nguồn vốn tài trợ đầy đủ để giúp giải ngân đều đặncho các dự án trong rung hạnvà có đầy đủ luồng vốn ưu đãI. Những ưu tiênvề phát triển của Việt Nam, mà luồng ODA cần hỗ trợ, đã được trình bày trong kế hoạch phát triển Kinh tế Xã hội của Chính phủ và trong văn bản chính thức chuẩn bị cho hội nghị Tài trợ năm 2002. Những nhu cầu này rất đáng kể và cần thiết ở Việt Nam. Khoảng 50 % dân số vẫnsống dưới mức nghèo khó và không có đủ các dịch vụ xã hội quan trọng trong khi chất lượng các dịch vụ lại yếu kém. Khoảng 40 % dân số có nước sạch trong khi các dịch vụ y tế chỉ phục được 21% dân số. Những chứng cứ về các chỉ tiêu trong các lĩnh vực y tế đã bị xấu đi từ thập kỷ 80 chothấy những thành quả về dịch vụ y tế mà Việt Nam đã bị đảo ngược. Mặc dù chi phí của khu vực tư nhân trong lĩnh vực y tế là nguồn lớn nhất để tài tr
Tài liệu liên quan