Đề tài nghiên cứu là cần thiết, bất cứ quốc gia nào muốn trở nên thịnh vượng thì đều phải dựa vào con người; vì con người là một yếu tố quyết định lực lượng sản xuất. Mặc dù ngày nay các phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại đã thay thế phần lớn sức lao động của con người nhưng chính con người đã sáng tạo và sử dụng chúng.
68 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-Tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1.Tính cần thiết của đề tài
Đề tài nghiên cứu là cần thiết, bất cứ quốc gia nào muốn trở nên thịnh vượng thì đều phải dựa vào con người; vì con người là một yếu tố quyết định lực lượng sản xuất. Mặc dù ngày nay các phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại đã thay thế phần lớn sức lao động của con người nhưng chính con người đã sáng tạo và sử dụng chúng.
Một đất nước giàu mạnh, công bằng và ổn định dựa trên cơ sở tự vững mạn của từng địa phương. Mỗi địa phương ở nước ta có những đặc điểm về địa lý, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau nhưng đều có chung một nguồn nhân lực dồi dào cần phải tạo việc làm và sử dụng hợp lý để khai thác có hiệu quả nguồn lực đó. Mặc dầu tiềm năng nguồn nhân lực ở mỗi địa phương là rất to lớn song nhưng năm qua mức độ khai thác, tạo việc làm sử dụng hợp lý còn bị hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bởi vậy mỗi địa phương cần phải xuất phát từ những đặc điểm, tình hình của địa phương mình, khai thác tiềm năng sẵn có tạo việc làm, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực để phát triển kinh tế-xã hội góp phần chung vào sự phát triển đất nước.
Thanh Liêm là một huyện thuộc tỉnh Hà Nam, có vị trí địa lý và đặc điểm kinh tế-xã hội rất trọng yếu. Với tiềm năng lao động to lớn nhưng chưa được khai thác hợp lý đặc biệt là tạo việc làm cho người lao động.
Vì vậy tôi chọn đề tài: “ Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-tỉnh Hà Nam ” hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc khai thác,sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương tôi và cả nước ta.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận về lao động, việc làm để phát triển kinh tế-xã hội nói chung và ở đơn vị hành chính cấp huyện nói riêng.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm.
- Phân tích thực trạng và yêu cầu giải quyết việc làm ở huyện Thanh Liêm trong những năm qua và nhưng năm sắp tới.
- Đưa ra quan điểm mới về tạo việc làm, kiến nghị một số giải pháp để tạo việc làm cho người lao động.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu vấn đề tạo việc làm ở huyện Thanh Liêm bao gồm cả các ngành kinh tế và các thành phần kinh tế.
- Đề tài không đi sâu vào từng việc là cụ thể nhưng chỉ ra các điều kiện cần thiết để tạo những việc làm cho từng ngành, từng địa phương trong huyện. Đồng thời lựa chọn những loại hình công việc cho toàn khu vực mang tính truyền thống và quan điểm, quan niệm đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường.
- Việc nghiên cứu của đề tài sử dụng những tư liệu thực tế của những năm gần đây và đưa ra những phương hướng, giải pháp cho những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Dùng phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
- Dùng phương pháp hệ thống và phương pháp chuyên gia.
5. Nguồn số liệu
- Đề tài sử dụng các số liệu lấy từ các báo cáo tổng hợp về tình hình lao
động và việc làm Phòng Tổ chức Lao động-Thương binh và xã hội Huyện Thanh Liêm-Tỉnh Hà Nam.
- Các tài liệu nghiên cứu thống kê lấy từ Phòng thống kê Huyện Thanh Liêm.
- Các văn bản có liên quan lấy từ Văn phòng UBND Huyện.
- Các điều tra lao động-việc làm của huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và của Việt Nam những năn gần đây.
6. Những đóng góp của đề tài
Đề tài xuất phát từ quan điểm: Con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, xoá đói giảm nghèo, công bằng, bình đẳng, hoà hợp dân tộc để có một sự phát triển bền vững là xu thế của thời đại. Từ đó tạo việc làm cho người lao động là mối quan tâm của tất cả các quốc gia đặc biệt là với Việt Nam-là một trong những nước kinh tế chậm phát triển, dân số đông ra khỏi tình trạng tụt hậu.
Qua phân tích, đánh giá tình hình thực trạng đề tài cho rằng phải xác định tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng ngành ở từng giai đoạn để khai thác có hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất. Để có kết quả to lớn,toàn cục thì phải đi từ cái riêng lẻ từng vùng, từng ngành....
7. Cấu trúc của đề tài
- Tên đề tài : “ Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Thanh Liêm-tỉnh Hà nam ”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương I : Sự cần thiết của tạo việc làm đối với người lao động.
Chương II : Thực trạng giải quyết việc làm ở Thanh Liêm
trong những năm qua.
Chương III : Một số kiến nghị để tạo việc làm cho người lao động
ở Thanh Liêm trong những năm tới.
chương I
Sự cần thiết của vấn đề tạo việc làm đối với người lao động
I.Con người-mục tiêu và động lực của sự phát triển
Những thành tựu của quá trình đổi mới đã đưa nước ta thoát ra khỏi khung kinh tế-xã hội kéo dài trong nhiều năm qua. Chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới của sự phát triển, đó là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nhằm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, dần thu hẹp khoảng cách về phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu vì mục tiêu cao cả là: "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Để đạt được điều đó chúng ta cần phải xây dựng một nền kinh tế phát triển mạnh, dựa trên những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước và trong một tình hình chính trị ổn định.
Nhận thức về sự phát triển kinh tế-xã hội trong thế giới hiện đại đã có những bước tiến đáng kể. Vấn đề trung tâm của thời đại chúng ta là vấn đề con người, là sự tham gia của con người vào sự phát triển, con người là yếu tố chủ thể quyết định sự phát triển bởi con người luôn là yếu tố cơ bản của bất cứ hình thái kinh tế-xã hội nào.
Một trong những vấn đề cơ bản nhất là phát triển nguồn nhân lực,coi đây là đỉnh cao,là mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình phát triển. Tư tưởng chỉ đạo này đã được Đại hội Đảng VIII khẳng định : " Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững".
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta coi mục tiêu và động lực của sự phát triển là vì con người và do con người. Để phát triển con người toàn diện và phát huy tối đa năng lực của họ. Từ quan điểm, mục tiêu trên được thể hiện tư tưởng cơ bản như sau:
- Đặt con người vào mục tiêu phát triển hay gọi là chiến lược con người.
- Khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc trong việc làm giầu cho mình và cho đất nước.
- Coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, gắn bó lợi ích mỗi người với từng tập thể và toàn xã hội.
- Mọi người được tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp.
- Nguồn nhân lực Việt Nam là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội.
Đây là một lợi thế và là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội vì: Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào và tăng lên rất nhanh, đây vừa là lợi thế ( nếu chúng ta biết khai thác những mặt tích cực ) đồng thời cũng là những lực cản về đời sống và việc làm ( nếu chúng ta không biết khai thác sử dụng có hiệu quả sẽ gây nên những hậu quả khó lường ).
Về đặc điểm con người Việt Nam
*Ưu điểm:
- Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, có khả năng sáng tạo, nắm bắt nhanh khoa học tiến bộ và công nghệ mới.
- Con người Việt Nam có nhiều năng khiếu, nhanh nhạy với cơ chế thị trường.
- Con người Việt Nam chịu khó, chịu đựng gian khổ, ham học hỏi, có bản lĩnh, có lòng nhân ái vị tha, bao dung và sống tình cảm.
* Nhược điểm:
- Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam bị hạn chế, vì thế độ dẻo dai trong lao động, học tập...yếu kém do chất lượng cuộc sống thấp.
- Kiến thức tay nghề còn mang nhiều thói quen lạc hậu ảnh hưởng của cơ chế cũ.
- Sự phối hợp, tính tập thể, đồng đội, tính nguyên tắc, kỷ luật của con người Việt Nam trong lao động sản xuất còn kém.
Phải phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm thì nguồn lực con người Việt Nam mới trở thành thế mạnh của đất nước. Đó cũng chính là mục tiêu, động lực trong quá trình phát triển đất nước ta.
Muốn khai thác và phát huy đầy đủ khả năng to lớn nguồn nhân lực, tạo việc làm để phát triển kinh tế xã hội chúng ta cần làm rõ khái niệm liên quan đến lao động, việc làm.
II Các khái niệm về lao động-việc làm
1. Khái niệm về lao động
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người vì nó tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động với năng xuất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Do vậy, điều 55 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi nhận: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân ”.
Việc làm cho lao động xã hội là một vấn đề kinh tế-xã hội có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Tạo thêm việc làm cho lao động xã hội là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010, đã được toàn thế giới cam kết trong tuyên bố và chương trình hành động toàn cầu tại thủ đô Co-pen-ha-ghen của Đan Mạch vào tháng 3/1995. Đối với nước ta, tạo thêm việc làm cho người lao động, kiềm chế thất nghiệp ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thường xuyên quan tâm thực hiện.
Để có thể đề ra được một chính sách việc làm đúng đắn, trước hết phải làm rõ khái niệm về việc làm. Điều 13 Bộ luật lao động quy định: " Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ”. Như vậy để có việc làm không chỉ vào cơ quan Nhà nước,trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mà còn tại gia đình, do chính bản thân người lao động tạo ra để có thu nhập. Nói chung, bất cứ nghề nàoviệc gì cần thiết cho xã hội, mang lại thu nhập cho người lao động và không bị pháp luật ngăn cấm thì đó là việc làm.
Tạo việc làm theo nghĩa rộng bao gồm những vấn đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực. Quá trình đó diễn ra từ việc giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động, đến việc tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao động mà mình đã tạo ra.
Tạo việc làm theo nghĩa hẹp chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm nhằm tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.
2. Khái niệm lao động, việc làm được vận dụng ở nước ta
* Việc làm
- Điều 13 Bộ luật lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm ”.
Khái niệm về lao động và việc làm được vận dụng ở nước ta:
- Người có việc làm là những người làm việc trong những ngành nghề đang hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. Theo đó, nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho mọi người.
+ Theo khái niệm này thì thị trường việc làm được mở rộng rất lớn bao gồm tất cả các hoạt động lao động thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Người lao động được tự do liên doanh, liên kết, tự do thuê mướn sức lao động theo pháp luật và hướng dẫn của Nhà nước.
Khái niệm này được thể chế theo các chỉ tiêu quản lý Nhà nước và thống nhất trong các cuộc điều tra trong phạm vi toàn quốc.
- Việc làm là hoạt động được thể hiện ở một trong ba nội dung sau:
+ Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật cho công việc đó.
+ Làm công việc thu lợi nhuận cho bản thân.
+ Làm công việc cho gia đình mình.
- Việc làm chính, việc làm phụ:
+ Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với công việc khác.
+ Việc làm phụ là công việc của người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính.
* Dân số hoạt động kinh tế
- Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
- Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động (lực lượng lao động) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15 đến 60 tuổi , nữ từ đủ 15 đến 55 tuổi ) đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
- Dân số có việc làm thường xuyên gồm những người thuộc bộ phận dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua có tổng số ngày làm việc thực tế lớn hơn hoặc bằng 183 ngày.
* Dân số không hoạt động kinh tế
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt động kinh tế là vì các lý do:
- Đang đi học;
- Hiện đang làm công việc nội trợ cho bản thân gia đình;
- Già cả, ốm đau;
- Tàn tật hoặc không có khả năng lao động;
- Hoặc ở vào tình trạng khác.
Tuỳ theo tình trạng việc làm, dân số hoạt động kinh tế được chia thành 2 loại: người có việc làm và người thất nghiệp.
- Người có việc làm là những người từ dủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước đó tính đến thời điểm điều tra:
+ Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật.
+ Đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình.
+ Đã có công việc trước đó song trong tuần lễ trước điều tra tạm thời không làm việc và sẽ trở lại tiếp tục làm việc ngay sau thời gian tạm nghỉ việc.
- Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc:
+ Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động tìm việc trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi không được.
+ Hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8h, muốn tìm thêm nhưng không tìm được việc.
III. Sự cần thiết tạo việc làm
Tạo việc làm cho người lao động là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội,
nhằm thu hút sử dụng người lao động vào những hoạt động hữu ích cho người lao động, cho xã hội. Trên cơ sở phân công lao động xã hội ngày càng hợp lý và hoàn thiện theo các mục tiêu đã định.
Tạo việc làm, sử dụng tối đa có hiệu quả các nguồn lao động không thể đặt riêng rẽ tách rời việc lựa chọn mô hình tăng trưởng phát triển kinh tế.
Một nền kinh tế " nhân bản " là nền kinh tế có tốc độ phát triển kinh tế cao, ổn định trên cơ sở giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong đó có việc làm cho người lao động. Nền kinh tế " nhân bản " đó là nền kinh tế mà chúng ta đang hướng tới.
1.Việc làm là nhu cầu của cuộc sống
Việc làm đó là những hoạt động có ích, tạo ra thu nhập cho người lao động và cho xã hội.
* Nhu cầu khách quan của người lao động
Về cơ bản nhu cầu của con người gồm hai loại : Đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần.
- Về mặt vật chất theo C.Mác : " Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, do đó cũng là của mọi lịch sử,tiền đề đó là người ta phải có thể sống đã mới có thể tạo ra " lịch sử ". Nhưng muốn sống trước hết phải có ăn, uống,mặc ,ở và một vài thứ khác nữa. Vậy thì hành động lịch sử đầu tiên là sự sản xuất ra những tư liệu thoả mãn những nhu cầu đó, sự sản xuất ra bản thân đời sống vật chất và đấy chính là một hành động lịch sử, một hành động lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử...". Từ thuở khai thiên lập địa con người đã ý thức được rằng: Để tồn tại con người phải đấu tranh với thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, tức là phải tham gia lao động. Khi xã hội càng phát triển, nhu cầu của con người tăng lên trong khi điều kiện thiên nhiên ngày càng khan hiếm, thì nhu cầu được lao động, tham gia sản xuất ngày càng lớn.
- Về mặt tinh thần : Lao động đã sáng tạo ra con người, hoàn thiện con người, nhờ có lao động mà con được hoàn thiện như ngày nay.
Bên cạnh nhu cầu vật chất thì nhu cầu về tinh thần (văn hoá, nghệ thuật , mong muốn được kính trọng...) cũng không kém phần quan trọng. Khi mà xã hội càng phát triển thì nhu cầu này ngày càng được chú trọng. Điều đó chỉ được đáp ứng khi con người tham gia vào lao động một cách tự nguyện và nhiệt tình để phát huy tối đa năng lực, sức sáng tạo của mình.
* Nhu cầu chủ quan của xã hội
Lao động đã sáng tạo ra con người và xã hội loài người, bất kỳ quốc gia nào cũng có nhu cầu sử dụng lao động để khai thác tài nguyên thiên nhiên phát triển kinh tế đất nước. Người lao động là nguồn lực quan trọng, là một trong các nhân tố cơ bản để sản xuất và phát triển. Sự phát triển chỉ có thể ổn định khi giải quyết tốt vấn đề xã hội trong đó có việc làm cho người lao động.
Vì vậy có thể nói việc làm là vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của người lao động và toàn xã hội.
2. Việc làm có mối quan hệ mâu thuẫn với sự phát triển kinh tế -xã hội
- Sự phát triển kinh tế được biểu hiện ở chỗ sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chỉ tiêu này được biểu hiện sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội, sự tăng lên này phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là thời gian lao động và hiệu quả của lao động.
Ta có công thức sau đây :
TSF = T.W
Trong đó:
TSF : Tổng sản phẩm xã hội.
T : Thời gian lao động (người, ngày công, giờ công).
W : Hiệu quả của lao động (NSLĐ).
Như vậy muốn tăng tổng sản phẩm xã hội, một mặt phải huy động triệt để mọi người có khả năng lao động tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là mỗi người đều có việc làm đầy đủ (đạt đến mức độ toàn dụng lao động); mặt khác phải nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, nhằm khai thác triệt để tiềm năng của mỗi người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả. Chính vì vậy, việc làm được coi là giải pháp có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
- Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện cho người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống, mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội càng văn minh hơn.
- Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ, tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền cơ bản nhất là quyền được được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia đình và góp phần xây dựng đất nước.
3. Việc làm là một "gánh nặng" của xã hội
Trong xã hội thì sự gia tăng dân số luôn gắn với sự gia tăng nguồn lao động. ở những nước chậm phát triển thì khả năng tạo thêm việc làm hiện nay bất cập với tốc độ gia tăng chưa từng thấy của nguồn lao động. Đây là một thách thức lớn đối với nhiều quốc gia.
Dân số tăng nhanh, nguồn lao động tăng nhanh đang làm mất cân đối giữa lao động và việc làm gây nên các tệ nạn xã hội và tội phạm ngày một gia tăng. Điều này trở thành lực cản của sự phát triển ở các quốc gia, nó ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia, an ninh khu vực và thế giới.
Con người sinh ra và lớn lên cùng với các hoạt động lao động của mình, là nguồn gốc của sự phát triển xã hội. Yếu tố chính, yếu tố chủ yếu quy định quá trình biến đổi và phát triển sản xuất chính là lao động sáng tạo của con người. Chính vì thế nếu không tạo điều kiện cũng như việc không đáp ứng nhu cầu lao động của con người thì đồng nghĩa với việc kìm hãm quá trình biến đổi và phát triển sản xuất.
Có việc làm, có thu nhập thì nhu cầu tối thiểu ăn, ở, mặc, học hành...
sẽ được đảm bảo. Ngược lại nếu không có việc làm thì các nhu cầu đó không được đáp ứng và vì nó mà con người có thể sẵn sàng tàn phá thiên nhiên, huỷ hoại môi trường bất chấp luật lệ, thuần phong mỹ tục mà chính họ tạo dựng nên.
Tình trạng thất nghiệp, không có việc làm sinh ra trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút...và còn có thể dẫn tới hoạt động tội phạm có tổ chức với quy mô lớn rất nguy hiểm cho xã hội.
Mặt khác thì thất nghiệp cũng là một nguyên nhân thúc đẩy di dân làm biến dạng sự phân bố dân cư giữa các khu vực khác nhau trong một quốc gia và cả giữa các quốc gia. Tình trạng này dẫn đến hiện tượng từ nông thôn đổ ra thành thị, từ miền núi xuống miền xuôi, từ trong nước ra nước ngoài, từ các nước chậm phát triển sang các nước phát triển vượt quá sự kiểm soát của Chính phủ