Tạo việc làm cho người lao động luôn là một vấn đề hết sức cấp bách, được các cấp chính quyền quan tâm rất nhiều. Có rất nhiều chương trình hỗ trợ tạo điều kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm, số người có việc làm ngày một tăng lên tương ứng với nó là tỷ lệ thất nghiệp giảm. Mỗi địa phương khác nhau có những đặc điểm khác nhau ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Do đó, khi nghiên cứu địa phương nào đó cần căn cứ vào tình hình cụ thể ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động để đưa ra biện pháp và hiệu quả phù hợp.
58 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu.
Tạo việc làm cho người lao động luôn là một vấn đề hết sức cấp bách, được các cấp chính quyền quan tâm rất nhiều. Có rất nhiều chương trình hỗ trợ tạo điều kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm, số người có việc làm ngày một tăng lên tương ứng với nó là tỷ lệ thất nghiệp giảm. Mỗi địa phương khác nhau có những đặc điểm khác nhau ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Do đó, khi nghiên cứu địa phương nào đó cần căn cứ vào tình hình cụ thể ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động để đưa ra biện pháp và hiệu quả phù hợp.
Huyện Trực Ninh nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung đã và đang đẩy mạnh chương trình XĐGN và tạo việc làm, chương trình tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới và giảm đáng kể hộ nghèo. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, thời gian làm việc ở nông thôn thấp, công tác XĐGN và tạo việc làm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập ở Phòng Nội vụ Lao động TBXH, với chuyên ngành theo học là kinh tế lao động em đã chọn đề tài: “Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định”. Qua đây em cũng xin đề xuất một số giải pháp, kiến nghị về vấn đề tạo việc làm cho người lao động để nâng cao hiệu quả tạo việc làm ở huyện Trực Ninh.
Chuyên đề gồm 3 phần:
+ Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
+ Phần 2: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
+ Phần 3: Giải pháp và kiến nghị về tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi và chỉ khi họ có điều kiện để sử dụng sức lao động của họ để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người lao động làm việc hay nói cách khác là khi họ có được việc làm.
1. Khái niệm việc làm và phân loại việc làm.
Việc làm.
Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như máy móc, nhà xưởng, vật liệu… và chi phí về sức lao động (V). Quan hệ kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công nghệ của sản xuất. Có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc sử dụng nhiều sức lao động, tức là khi công nghệ thay đổi thì quan hệ tỷ lệ giữa C và V cũng thay đổi theo. Trong điều kiện kỹ thuật thủ công thì một đơn vị C có thể kết hợp với nhiều V, ngược lại trong điều kiện tự động hóa sản xuất theo dây truyền thì đòi hỏi ít V nhưng nhiều C (công nghệ sử dụng nhiều vốn). Vì vậy tùy từng điều kiện cụ thể để lựa chọn phương án phù hợp để tạo việc làm cho người lao động.
Theo điều 13, chương II (Việc làm) Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam có ghi rõ: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Theo khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện:
- Hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình (đó là tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
- Hoạt động đó không được pháp luật cấm (đó là tính pháp lý của việc làm). Hoạt động có ích không giới hạn về hành vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc làm cho người khác trong khuân khổ pháp luật, không còn bị phân biệt đối sử trong các thành phần kinh tế.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ nhau, là điều kiện cần và đủ của mọi hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu hoạt động đó tạo ra thu nhập nhưng lại vi phạm pháp luật cũng không được coi là việc làm. Một hoạt động dù là hợp pháp và có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn như nội trợ của phụ nữ cho chính gia đình mình.
Tuy nhiên, khái niệm trên còn có những hạn chế:
- Tính hợp pháp của hoạt động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào luật pháp và thể chế của mỗi quốc gia và cũng có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác (Mại dâm của phụ nữ được thừa nhận là việc làm ở Thái Lan, Philippines. Nhưng nghề này không được thừa nhận ở Việt Nam).
- Không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình, cho xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm công (công việc nội trợ).
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đưa ra khái niệm: Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Phân loại việc làm.
Theo khái niệm việc làm của Bộ Luật lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, việc làm thể hiện dưới các dạng:
Công việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc hiện vật.
Công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân.
Công việc mà người lao động làm cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao.
Theo mức độ sử dụng lao động, việc làm chia ra:
Việc làm đầy đủ: Nghĩa là mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động đều có việc làm nếu chỉ xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động (Tức là có sự phù hợp giữa C và V).
Việc làm hợp lý: Là việc làm được tạo ra trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động.
Việc làm cũng có thể chia ra người có việc làm, người không có việc làm (thất nghiệp), người có việc làm tạm thời, việc làm ổn định.
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là những người làm việc ít hơn mức mà họ mong muốn. Thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng: hoặc là người lao động không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, hoặc là những việc làm có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống do đó họ muốn làm thêm để có thu nhập.
Thất nghiệp được hiểu là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Người có việc làm gồm những người làm việc trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra kể cả lao động làm nghề giúp việc gia đình được trả công, hoặc tạm thời nghỉ việc do ốm đau, tai nạn, nghỉ lễ, nghỉ phép hoặc tạm thời nghỉ việc do thời tiết xấu.
Người thất nghiệp gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm và có nhu cầu được làm việc.
Người thiếu việc làm gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định trong tuần, trong tháng hoặc trong năm và có nhu cầu làm thêm giờ; hoặc là những người có tổng số giờ làm việc bằng số giờ theo quy định trong tuần, tháng, năm nhưng có thu nhập quá thấp nên muốn làm thêm để có thu nhập.
2. Nội dung tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu của thị trường.
Hay tạo việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu của dân số. Chất lượng lao động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục, y tế. Ngoài ra vấn đề môi trường cho sự kết hợp các yếu tố này hết sức quan trọng. Nó bao gồm các chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động trong công việc. Thực tế thị trường lao động chỉ có thể được thi hành khi người lao động với người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao động. Do vậy vấn đề tạo việc làm cho người lao động phải được nhìn nhận ở cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời không thể thiếu vai trò của Nhà nước. Đó chính là cơ chế ba bên của tạo việc làm, cơ chế này đòi hỏi sự tham gia tích cực của người lao động, Nhà nước và người sử dụng lao động.
Về phía người lao động, muốn tìm được việc làm phù hợp có thu nhập đương nhiên phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho phát triển sức lao động của mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ (từ gia đình, từ các tổ chức xã hội ) để tham gia đào tạo, phát triển, nắm vững một nghề nhất định – điều kiện cần thiết cho người lao động tham gia vào thị trường lao động.
Về phía Nhà nước, tạo ra hành lang pháp lý, ban hành các luật lệ, chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư lieu sản xuất là bộ phận cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.
Về phía người sử dụng lao động gồm các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế xã hội cần thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra để không chỉ tạo chỗ làm việc mà còn duy trì và tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động. Đó cũng chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó người sử dụng lao động cần có vốn để mua hoặc thuê nhà xưởng (nơi làm việc), công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liêu, mua sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa để mở rộng quy mô sản xuất chủ sử dụng lao động không chỉ có vốn mà cần kinh nghiệm quản lý, biết vận dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước, quản lý lao động khoa học và nghệ thuật .
Tóm lại, cơ chế tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi sự tham gia tích cực cả ba phía : Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân những người lao động. Sao cho cơ hội việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị trường đúng lúc, đúng chỗ.
Vì vậy, khi nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của Nhà nước cũng như tư nhân là các khu vực có thể tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Vấn đề là đầu tư chủ yếu vào khu vực thành thị, khu vực công nghiệp vì thường ở đó tỷ lệ lợi nhuận cao, thuận lợi cho sản xuất. Tuy nhiên, có thể sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này lên, bỏ qua khu vực nông thôn.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
a) Điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ.
Cầu lao động bắt nguồn từ cầu sản xuất, phát triển kinh tế. Sản xuất càng phát triển, quy mô ngày càng mở rộng nhu cầu lao động ngày càng lớn. Muốn mở rộng sản xuất phát triển kinh tế phải dựa vào các tiền đề vật chất. Do đó tiền đề vật chất là nhân tố tiên quyết trước hết ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Điều kiện tự nhiên của một vùng là có sẵn ngoài ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn độ màu mỡ tự nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình quân. Điều kiện khí hậu, thủy văn thuận lợi hay bất lợi cho phát triển các loại cây trồng, vật nuôi. Trữ lượng hầm mỏ, tài nguyên rừng… Trước hết đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Thực tế nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất nhưng còn tùy thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò củ đất là khác nhau.
Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ tham gia là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực không thể thay thế được .
Tuy nhiên mỗi vùng, mỗi địa phương lại có giới hạn khác nhau về diện tích đất, địa hình, trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng đó. Hiện nay với diện tích đất có hạn, dân số đông, diện tích đất bình quân trên đầu người thấp nhất thì vấn đề sử dụng ruộng đất đạt hiệu quả cao là rất khó khăn. Vì vậy, khai thác chiều sâu của ruộng đất để mỗi đơn vị ruộng đất ngày càng cho ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu về nông lâm thủy sản cho con người. Nếu đất được sử dụng đúng mục đính hợp lý thì chất lượng của đất ngày càng tốt hơn. Do đó để tạo nhiều việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông thôn thì vấn đề chú trọng công tác vừa chăm sóc đất, vừa kết hợp trồng lúa, hoa màu sen kẽ là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nông nhàn cho người nông dân.
Trong công nhiệp, đất đai thường được sử dụng trong xây dựng nhà máy, công ty, xí nghiệp. Do đó đất cũng trở thành tư liệu sản xuất hàng đầu. Tuy vậy vấn đề đầu tư cho công nghiệp đang hết sức được chú trọng, phần lớn lao động được thu hút vào làm việc trong lĩnh vực này. Cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển mạnh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nên các cấp các ngành đều tạo điều kiện cho sự phát triển, xây dựng quy mô các doanh nghiệp công nghiệp. Làm tốt công tác này cũng có nghĩa là làm giảm tỷ lệ thất nghiệp như hiện nay.
Như vậy, điều kiện tự nhiên nói chung và đất đai nói riêng là vô cùng quan trọng trong sản xuất.Vì thế muốn tạo được việc làm cho người lao động thì phải xem xét vấn đề này, đánh giá xem việc sử dụng đất có hợp lý không, đất nào dùng cho nông nghiệp, đất nào dùng cho công nghiệp là hợp lý nhất.
Điều kiện thứ hai chúng ta đề cập đến là vốn. Vốn có vai trò rất quan trọng , không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Vốn được thể hiện bằng tiền của tư liệu lao động được sử dụng vào trong sản xuất. Trong nông nghiệp, sự tác động của vốn tới hiệu quả kính tế của nó không phải là bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng vật nuôi, ngoài ra còn biểu hiện ở yếu tố kỹ thuật. Cơ cấu chất lượng vốn phải phù hợp với từng loại đối tượng sản xuất, từng loại đất đai. Mặt khác nhiều khi do thời gian thu hồi vốn chậm nên cần phải có khối lượng vốn lưu động tránh tình trạng vốn bị ứ đọng. Vốn trong nông nghiệp tăng cao thì cơ hội tạo việc làm cho người lao động trong sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều, họ có thể đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút nhiều lao động tham gia. Trong công nghiệp cũng vậy, vốn có vai trò quan trọng, là yếu tố tất thiết để ngành phát triển. Vốn trong công nghiệp được sử dụng rất nhiều, ngoài xây dựng nhà xưởng còn phải mua sắm thiết bị nguyên vật liệu, máy móc, vốn để dự trữ cho quay vòng. Càng nhiều vốn để đầu tư, quy mô sản xuất ngày càng được nâng cao và số lượng lao động thu hút làm việc ngày càng nhiều hơn.
Do vậy vốn vô cùng quan trọng trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động vốn có thể cho phép mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao hiệu quả và có thể thu hút lao động, tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
Nhân tố thuộc về sức lao động.
Cơ chế tạo việc làm đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của cả ba phía: Người chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Do đó, nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tạo việc làm cho người lao động là sức lao động trên cả hai phương diện là số lượng và chất lượng. Nhân tố này bao gồm những đòi hỏi mà người lao động cần có để đáp ứng được những yêu cầu của người sử dụng lao động.
Trước hết cần hiếu sức lao động là khả năng trí lực, thế lực của con người. Đó là tri thức, sức khỏe, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động.
Trong bối cảnh của một nước đang phát triển như Việt Nam, cung về số lượng lao động không phải là vấn đề đáng bàn vì đang dư cung, quan trọng hơn là vấn đề về sức lao động. Vì thế, người lao động muốn kiếm được việc làm có thu nhập cao, phù hợp với năng lực, trình độ, cần phải có các thông tin về thị trường lao động, tức là cần đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và trí lực. Do đó, thông tin thị trường lao động giúp cho người lao động lựa chọn được ngành nghề mà thị trường lao động đang cần và sẽ cần trong tương lai để thực hiện đầu tư vào vốn con người có hiệu quả. Mỗi người lao động cũng cần phụ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mình, tranh thủ các nguồn tài trợ để tham gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm. Đó cũng chính là điều kiện cần thiết để duy trì việc làm, tạo cơ hội việc làm có thu nhập và nâng cao vị thế của bản thân mỗi người lao động.
Cơ chế, chính sách kinh tế xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Cơ chế chính sách của chính phủ, chính quyền địa phương, các quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố rất quan trọng tạo việc làm cho người lao động. Đó chính là môi trường kinh tế và môi trường xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
Môi trường kinh tế thể hiện sự hoạt động của thị trường hàng hóa đang diễn ra trong khu vực, giá trị kinh tế của vùng, sự hoạt động của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá những yếu tố này để tìm ra xu hướng, tiềm năng phát triển kinh tế của vùng cho đầu tư phát triển sản xuất, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Yếu tố hết sức quan trọng đó là môi trường xã hội. Những cơ chế, chính sách, sự quan tâm của các cấp, các ngành đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Đó là các chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, ra luật đầu tư thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo cho người dân, phổ biến tốt các vấn đề xã hội khác đang được quan tâm… thì mới có thể làm tốt công tác tạo việc làm cho người lao động. Yếu tố tâm lý cũng hết sức quan trọng, liên quan tới công việc của người lao động, đặc biệt là yếu tố tinh thần cho người lao động. Vì vậy người sử dụng lao động cần hết sức chú ý tới tâm lý người lao động, tạo cảm giác mong muốn được làm việc, hăng say làm việc cho người lao động.
Có thể nói nhóm nhân tố này rất đa dạng như các chính sách kinh tế vĩ mô hay vi mô và có thể theo ngành, lĩnh vực, vùng… ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Chẳng hạn, chính sách đổi mới trên tầm vĩ mô chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần… đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Do đó cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực và theo vùng thay đổi không chỉ về số lượng mà đặc biệt là về chất lượng lao động. Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân cũng được khuyến khích phát triển đúng hướng.
Như vậy, vấn đề tạo việc làm cho người lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng chủ yếu nhất vẫn là những yếu tố được nêu ở trên. Các yếu tố này có sự tác động qua lại với nhau. Để tạo được việc làm cần có tư liệu sản xuất, nhưng có tư liệu sản xuất rồi cần phải có sức lao động phù hợp với trình độ chuyên môn. Hai yếu tố này là điều kiện cần, yếu tố môi trường là điều kiện đủ tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề tạo việc làm.
4. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động được coi là vấn đề búc xúc trong mọi thời đại. Bởi nếu người lao động bị thất nghiệp, thiếu việc làm thì đó là biểu hiện của việc không sử dụng và khai thác hết nguồn lực con người vốn có trong xã hội, là sự lãng phí nguồn lực của xã hội và mất đi một phần thu nhập của người dân. Với xã hội, thất nghiệp làm giảm thu nhập và mất khoản chi phí trợ cấp thất nghiệp, đời sống kinh tế xã hội giảm. Với người thất nghiệp họ phải làm bất cứ việc gì miễn là kiếm được tiền trang trải cuộc sống thậm chí vi phạm pháp luật. Nhất là ở khu vực thành thị, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao dẫn đến tệ nạn xã hội ngày càng nhiều. Còn đối với những người đang có việc làm họ sẽ bị sức ép về kinh tế, làm việc ở mức tiền công thấp, ngày làm việc kéo dài nhưng lại luôn bị đe dọa mất việc làm. Thất nghiệp còn dẫn đến thiệt hại cho nền kinh tế, đem lại khó khăn cho gia đình và xã hội. Từ những khó khăn về kinh tế gây tác động và ảnh hưởng đến lĩnh vực xã hội dấn tới hiện tượng tiêu cực xã hội. Do đó, tạo việc làm có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế và đối với xã hội. Tạo việc làm cho người lao động chính là khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người, giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất, là yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế.
Ngày nay, tạo việc làm có ý nghĩa sống còn đối với một nền kinh tế, là biện pháp hữu hiệu nhất để đẩy lùi nạn thất nghiệp bởi thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói và tệ nạn xã hội.
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ghi